Chương II. GIÁO HỘI BỊ BÁCH HẠI
I. Những đánh giá khác nhau về Kitô giáo và kitô các hữuChương III. TỔ CHỨC VÀ ĐỜI SỐNG NỘI BỘ CỦA GIÁO HỘI TRONG 3 THẾ KỈ ĐẦU
I. Đời sống phụng vụ và cầu nguyệnChương IV. GIÁO HỘI TRONG ĐẾ QUỐC KITÔ GIÁO
I. Tự do tôn giáo đến quốc giáoChương V. SỰ HÌNH THÀNH KINH THÁNH, CÁC CÔNG ĐỒNG CHUNG ĐẦU TIÊN TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
I. Tranh luận về thần tính của Đức Giêsu KitôChương VI. CÁC GIÁO PHỤ - NHỮNG VĂN SĨ KITÔ GIÁO CỦA NHỮNG THẾ KỶ ĐẦU
I. Giáo Phụ là những aiChương VII. GIÁO HỘI THỜI THƯỢNG TRUNG CỔ
I. Các cuộc xâm lăng và địa lí tôn giáo mớiChương VIII. KITÔ GIỚI - NHỮNG NỀN TẢNG CỦA MỘT XÃ HỘI
I. Các nền tảng của Kitô giới thời Trung cổChương IX. KITÔ GIỚI : BÀNH TRƯỚNG, BỊ PHẢN KHÁNG VÀ TỰ VỆ
I. Kitô giới bành trướng : Thập Tự Chinh và truyền giáoChương X. GIÁO HỘI THỜI THƯỢNG CỔ
I. Tinh thần "đời" phát sinhChương XI. PHỤC HƯNG VÀ CẢI CÁCH
I. Âu Châu thời Phục HưngChương XII. CUỘC CANH TÂN CÔNG GIÁO
I. Canh tân Công giáo ở thế kỉ XVIChương XIII. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
I. Những vấn đề liên hệ đến việc truyền giáoChương XIV. GIÁO HỘI TRONG ÁNH SÁNG VÀ THỜI KÌ CÁCH MẠNG PHÁP
I. Những biến đổi trong giáo hội Công giáoChương XV. GIÁO HỘI VÀ CHỦ THUYẾT TỰ DO
I. Giáo Hội thời trùng hưngChương XVI. GIÁO HỘI GIỮA THẾ GIỚI TÂN TIẾN
I. Giáo Hội tại các nước Âu Châu cho tới thế chiến IChương XVII. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO TỪ ĐẦU THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1940
I. Tổng quát về công cuộc truyền giáo ở thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XXChương XVIII. GIÁO HỘI TRƯỚC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRÍ THỨC VÀ ĐẠI KẾT
I. Giáo Hội trong xã hội kinh tế mớiChương XIX. GIÁO HỘI TỪ THẾ CHIẾN II ĐẾN CÔNG ĐỒNG VATICAN II
I. Người kitô hữu trong thế chiến IIChương XX . GIÁO HỘI THỜI CÔNG ĐỒNG VATICAN II
I. Công Đồng Vatican III. ĐẾ QUỐC RÔMA
1. Tổ chức chính trị hành chính
Thành Rôma được thành lập năm 753 trước công nguyên, đã hoàn tất việc chinh phục Địa Trung Hải vào thế kỉ I trước công nguyên. Đế quốc ra đời năm 27 (tcn) và bắt đầu "thời hòa bình". Tất cả vùng Địa Trung Hải đều ở trong cùng một thể chế chính trị, hành chính. Đế quốc chia làm nhiều tỉnh. Ở vùng ngoại vi, một vài ông vua còn tại chức, nhưng có ít quyền. Nếu tỏ ra ý muốn độc lập, họ sẽ bị thay bằng những công chức của đế quốc. Triều đại dòng Antoninô vào thế kỉ II (từ Trajanô đến Marcô Aurêliô) đã đưa đế quốc tới cao điểm.2. Văn hóa
Đế quốc qui tụ nhiều sắc dân, nhưng các sắc dân đó vẫn luôn bảo tồn các tập tục, ngôn ngữ và văn hóa của mình. Tuy nhiên, có hai ngôn ngữ được bắt buộc sử dụng trên toàn đế quốc: Hi Ngữ và La Ngữ.3. Tôn giáo
Trong đế quốc, có những hệ thống tôn giáo rất khác nhau. Những tôn giáo này có thể đối lập với sứ điệp Phúc Âm, nhưng cũng có thể là những "viên đá chờ đợi" mạc khải Kitô Giáo.4. Xã hội
Một sử gia đã đánh giá nền văn minh Hi - La của 3 thế kỉ đầu là một "hợp tác xã hạnh phúc: coopérative du bonheur". Thực ra, hạnh phúc này chỉ dành cho một thiểu số được ưu đãi là những nhà quí tộc, những thương gia giàu có. Nói cho đúng, đây là một xã hội tàn nhẫn đối với kẻ yếu, cách riêng đối với người nô lệ. Trong một vài thành phố, 2/3 dân cư là người nô lệ, phải làm việc tay chân nặng nhọc, không có quyền hành gì cả. Thậm chí thời (Nêrô) chủ còn có quyền sinh sát nô lệ. Ngay cả những người tự do vẫn không bình đẳng với nhau, vì có sự phân biệt công dân Rôma với những người khác. Và những công dân Rôma lại còn được chia ra 2 loại tùy theo tài sản và địa vị xã hội, với 2 thể chế công lí khác nhau. Ở Rôma, phần lớn dân chúng sống khổ sở và thiếu thốn. Nền văn minh Hi - La cũng là nền văn minh trọng nam khinh nữ. Phụ nữ chỉ được coi là thứ yếu, bị khinh miệt. Khi thuần phong mĩ tục bị băng hoại, người ta đổ lỗi cho đàn bà. Trẻ em cũng bị coi thường. Người cha có thể từ chối đứa con do ông sinh ra. Khi đó nó có thể bị giết hoặc bỏ rơi.II. GIÁO HỘI THỜI TÔNG ĐỒ
1. Giáo Hội ra đời
Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, khoảng năm 30, ở Giêrusalem, trước đông đảo các khách hành hương Do Thái tụ họp nhân ngày lễ, thánh Phêrô đã công bố cho đồng bào mình Tin Mừng Đức Giêsu, Đấng đã được Thiên Chúa sai đến, đã bị đóng đinh thập giá, nhưng đã sống lại và được Thiên Chúa đặt làm Chúa. Các thính giả hỏi xem họ phải làm gì và được trả lời: phải hối cải, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha thứ tội lỗi và lãnh nhận Thánh Thần (Cv 2-4). Ba ngàn người đã chịu phép rửa.2. Giáo Hội mở rộng
Không bao lâu, những kitô hữu Do Thái có văn hóa Aram hợp lại với người có văn hóa Hi Lạp trong cộng đồng. Những mâu thuẫn xảy ra giữa hai nhóm này. Một toán 7 người (trong đó có Têphanô) được chỉ định phụ trách nhóm Do Thái có văn hóa Hi Lạp. Như thế, cộng đồng tính hữu đã hướng về những người Do Thái sống bên ngoài đất Palestin không trói buộc sứ điệp Phúc Âm với Giêrusalem. Ngoài ra, khi bị bách hại, những người Do Thái Hi Hóa phải bỏ Giêrusalem trốn tới Samari, Antiokia, trở nên những người truyền giáo cho kiều bào Do Thái ở các vùng này (Cv 6-9).3. Tổng kết thế kỉ I
Trong thế kỉ I, đã có các cộng đồng Kitô Giáo được thành lập từ Giêrusalem tới Rôma. Các cộng đồng ở Tiểu Á thành lập nhờ sự năng động của cộng đồng Antiokia. Các cộng đồng ở Hi Lạp được Phaolô thành lập. Các cộng đồng trong Sách Khải Huyền phát xuất từ ảnh hưởng của Gioan. Còn cộng đồng ở Rôma không rõ do ai thành lập.Phúc Âm càng được rao giảng thì số kitô hữu ngày càng gia tăng khắp nơi, khiến nhiều người phải quan tâm lo ngại. Kitô giáo đề ra những đòi hỏi luân lí Phúc Âm chống lại những thói hư đương thời, không chấp nhận việc thần hóa quốc gia...
Ngoài ra, Kitô Giáo còn có phong tục riêng, có những việc cử hành phượng tự cách kín đáo dễ khiến cho người ta nghĩ xấu. Quả thực, dân Rôma có cái nhìn ác ý về người kitô hữu. Cho dù các văn sĩ Kitô Giáo, các nhà hộ giáo cố gắng bênh vực cộng đồng của mình trước dư luận và chính quyền, họ vẫn không ngăn chặn được bách hại nhắm vào các kitô hữu trong gần 3 thế kỉ đầu.I. NHỮNG ĐÁNH GIÁ KHÁC NHAU
VỀ KITÔ GIÁO VÀ CÁC KITÔ HỮU
1. Quan điểm của giới bình dân ngoại đạo
Có 3 lời vu khống chính yếu nhất được lưu truyền chống người kitô hữu :a. Kitô hữu là người vô thần, vì không tham dự các tế tự thờ thần cổ truyền, không dự vào nghi thức tôn thờ Hoàng Đế và phượng tự của các tôn giáo Đông Phương.
b. Kitô hữu vô luân, tụ tập lại trong các bữa ăn tối chính là để truy hoan, làm những hành vi đồi bại.
c. Kitô hữu ăn thịt người, tức ăn thịt và uống máu trẻ bị giết để tế lễ.
Các vu khống trên được loan truyền rộng rãi ; vì thế người kitô hữu bị chê bai là mê tín, cứng đầu, bị khinh bỉ trong một thời gian dài.
2. Quan điểm của giới trí thức
và chính trị gia ngoại đạo
Ngoài tiếng đồn của giới bình dân trên đây do hiểu sai về người kitô hữu, còn có những nhà trí thức điều tra về người kitô hữu, đọc Thánh Kinh và công kích Kitô Giáo mãnh liệt. Nổi tiếng là Celso và Porphyrô. Họ đã kích 3 điểm :3. Quan điểm của các nhà hộ giáo
Trước những lời đả kích này, các kitô hữu đã dùng các tác phẩm trình bày rõ ràng giáo thuyết và tập tục Kitô Giáo để giải thích cho người ngoại hiểu, đồng thời đánh tan sự ngộ nhận. Các tác phẩm này được gọi là tác phẩm hộ giáo. Trong những nhà hộ giáo nổi tiếng nhất, phải kể đến Tertullien, người thành Carthage. Tất cả các ngài đều khẳng định rằng những lời tố cáo chống các kitô hữu, các cuộc xét xử kết án thời bách hại Đạo là bất công. Các ngài mổ xẻ từng lời tố cáo trên :II. NHỮNG CUỘC BÁCH HẠI
Các nhà hộ giáo đã không thuyết phục được đối phương. Khi người ta tìm những người chịu trách nhiệm về cái tai họa xảy ra lúc đó, thì những lời vu khống đã kích động các cuộc nổi dậy, chống lại người kitô hữu. Để xoa dịu cơn phẫn nộ của dân chúng, nhà cầm quyền tuyên án các kitô hữu, những người bị coi là thủ phạm. Đó là nguồn gốc của các cuộc bách hại.1. Bách hại và tử đạo
Phải hiểu rõ những từ này, và không nên khái quát hóa tình trạng Giáo Hội một cách dễ dàng.2. Các cuộc bách hại trong hai thế kỉ đầu
Hai thế kỉ đầu chưa có cuộc bách hại toàn bộ, cũng chưa có đạo luật rõ ràng về các kitô hữu, chúng ta chỉ nêu ra mấy cuộc bách hại nổi bật :3. Các cuộc bách hại ở thế kỉ III
Cuối thế kỉ II, đế quốc bắt đầu rạn nứt. Các Hoàng Đế muốn loại bỏ những yếu tố gây chia rẽ và xiết chặt dây liên kết các cư dân trong toàn đế quốc bằng việc tôn thờ Hoàng Đế. Người kitô hữu không chấp nhận việc tôn thờ ông. Vì vậy, các Hoàng Đế nhiều lần ra sắc chỉ chống Kitô Giáo trên toàn đế quốc.4. Cuộc bách hại cuối cùng
Đế chế ngày càng rơi vào chế độ độc tài. Khi lên nắm quyền, Diôcletianô bắt đầu cải tổ toàn nền hành chính, chia đế quốc làm 4 phần với 2 Hoàng Đế bên Đông Phương và 2 Hoàng Đế bên Tây Phương. 96 tỉnh nhập thành 12 khu vực. Thuế khóa nặng nề, luật pháp ngày càng cứng rắn, việc tôn thờ Hoàng Đế lên tới tột đỉnh. Những kẻ không theo quốc giáo bị truy nã như người man-di, các kitô hữu.Kitô hữu không phải là một cá nhân đơn độc, mà thuộc về một cộng đoàn của dân mới là Giáo Hội. Thực ra, khi thiết lập Giáo Hội, Chúa không đặt ra một qui chế xã hội tỉ mỉ và rõ ràng. Nhưng để sống và tồn tại, Giáo Hội phải dần dà tạo nên cho mình có một cơ cấu tổ chức cần thiết tùy theo hoàn cảnh thế giới mà mình đang sống trong đó. Như cần có nơi hội họp, cần có qui luật cử hành phụng vụ, cần người lãnh đạo và thi hành các chức năng khác nhau... đó là mục tiêu của chương này, để tìm hiểu xem tổ chức và đời sống nội bộ của Giáo Hội trong 3 thế kỉ đầu diễn tiến như thế nào ?
I. ĐỜI SỐNG PHỤNG VỤ VÀ CẦU NGUYỆN
1. Nơi và lúc cầu nguyện
- Trong buổi đầu của Giáo Hội, các kitô hữu thường tập trung ở các tư gia để cầu nguyện. Ở Đông Phương, các kitô hữu thường sử dụng tầng trên, sát mái nhà, nơi yên tĩnh và kín đáo nhất (Cv 20,7-11). Dùng phòng tắm, bể tắm vào việc rửa tội. Khi đẹp trời, có thể tụ họp ở một khu ngoài trời có rào kín, ở trong vườn hay ngoài nghĩa trang. Từ thế kỉ II, có những kitô hữu dâng những ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng vụ. Nhà thờ thực sự chỉ được xây vào thế kỉ III.
- Giờ cầu nguyện trải dài suốt ngày sống. Lúc mặt trời mọc, họ hướng về phía mặt trời để cầu nguyện. Ngoài ra còn cầu nguyện lúc 9 giờ, buổi trưa, 3 giờ chiều và lúc mặt trời lặn. Khi cầu nguyện họ đứng thẳng, cánh tay luôn cao và bàn tay mở rộng.
2. Việc nhập Đạo
- Thời kì dự tòng, phép rửa tội và thêm sức
Thời kì dự tòng ngắn dài thay đổi tùy không gian và thời gian.
Ở Rôma, từ thế kỉ 3, thời gian dự tòng kéo dài 3 năm, phải được giới thiệu và bảo đảm về ý định nghiêm túc, từ bỏ một số nghề có liên hệ đến việc thời ngẫu tượng và những thói vô luân. Được chuẩn bị bằng việc giáo huấn, giúp khám phá nội dung đức tin.
Ngày thứ 6, trước khi chịu phép rửa, phải ăn chay. Ngày thứ 7, giám mục đặt tay trên các ứng viên trừ tà, hà hơi và làm dấu thánh giá trên họ. Canh thức suốt đêm thứ 7 nghe Lời Chúa và giáo huấn. Cuối đêm Vọng Phục Sinh là nghi thức rửa tội. Sau đó, giám mục đặt tay và xức dầu lần cuối. Đó là phép thêm sức.
3. Phép Thánh Thể hay
cử hành Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa
Mỗi Chúa Nhật, các kitô hữu đều tụ họp để cử hành Mầu Nhiệm Phục Sinh. Trọng đại nhất là chính ngày lễ Phục Sinh. Ban đầu chỉ bên Đông Phương cử hành ngày này, còn bên Tây Phương chỉ cử hành vào Chúa Nhật. Vào cuối thế kỉ II, các kitô hữu tất cả đều cử hành lễ Phục Sinh, nhưng chưa nhất trí với nhau về ngày cử hành. Sau này, thánh Irénée thành Lyon thuyết phục mọi người chấp nhận mừng lễ Phục Sinh vào Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Do Thái (14 Nisan).
- Các kitô hữu cử hành lễ Tạ Ơn là trọng tâm của ngày Chúa Nhật và Phục Sinh để tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa. Các bản văn Tân Ước (Cv 2,42 ; 20,7-1... 1 Cr 10,16) cho thấy một chỉ dẫn về diễn tiến của nghi thức bẻ bánh. Các bản văn khác (như của Giustinô) cho thấy cơ cấu của việc cử hành Thánh Thể, xác định điều kiện cần để tham dự Thánh Thể. Người chịu lễ nhận bánh trên lòng bàn tay, người vắng mặt được phó tế đem đến.
4. Phép giải tội
Thế kỉ II. Sách Didachè kêu mời các tín hữu xưng tội trước khi cầu nguyện và dự tiệc Thánh Thể. Người chịu phép rửa tội rồi không được phạm tội nặng nữa. Tuy nhiên, cách chung người ta dè dặt rằng có thể ban ơn tha tội cho những tội nặng (bội giáo, sát nhân, ngoại tình) chỉ ban một lần, coi như đồng hóa với phép rửa.
II. CÁC THỪA TÁC VỤ
1. Trong thể kỉ đầu
Cộng đồng sơ khởi có tổ chức. Nhóm Mười Hai điều khiển cộng đòng Palestin nổi tiếng Aram ; nhóm bảy người do Têphanô đứng đầu cộng đoàn điều khiển những người Do Thái hi hóa nói tiếng Hi Lạp.
Cộng đoàn Giêrusalem và nhiều cộng đoàn khác tổ chức theo mẫu cộng đoàn Do Thái. Đứng đầu là Hàng Niên Trưởng ở Giêrusalem, Giacôbê là thủ lãnh hàng niên trưởng này. Ở Antiokia có Giáo Hội thừa sai với 2 tổ chức : các thừa tác lưu động thi hành tác vụ đoàn sủng, đây là các Tông Đồ như Phaolô và Barnabé. Rồi các tiên tri giải thích Lời Chúa, và các tiến sĩ là những chuyên viên Kinh Thánh.
Trong các cuộc hành trình truyền giáo, các thừa sai lập những cộng đoàn địa phương và đặt các vị hữu trách đứng đầu, được phong ban bằng việc đặt tay ; họ giảng dạy, rửa tội và chủ sự Thánh Lễ Tạ Ơn.
2. Thế kỉ II - III
Theo Clément thành Rôma và sách Didachè, thì những giáo đoàn có các episcopes-presbytes và các phó tế, dần dần xuất hiện vị chủ tịch, và không bao lâu vị này mang tước hiệu episcope và tách khỏi Hàng Niên Trưởng. Phó tế là thừa tác viên thuộc cấp, liên kết với episcope. Như vậy, hình thành 3 cấp : giám mục, linh mục và phó tế.
Ban đầu chỉ mình giám mục chủ sự thánh lễ, giảng, rửa tội, giao hòa hối nhân. Các linh mục chỉ phụ giúp giám mục. Nhưng dần dà các tòa giám mục gia tăng và nhiều nhà thờ ở Rôma và Alexandria được xây dựng, người ta cắt đặt các linh mục coi sóc với trách nhiệm đặc biệt.
Hàng giáo sĩ và giáo dân can thiệp nhiều cách khác nhau vào việc chọn thừa tác viên. Nghi thức chính là đặt tay. Giám mục đặt tay truyền chức giám mục. Giám mục và linh mục đặt tay truyền chức linh mục. Chỉ mình giám mục đặt tay truyền chức phó tế. Còn các thừa tác vụ khác như đọc sách, người ta chỉ trao cho họ vật dành cho tác vụ đó.
3. Nhiệm vụ của thừa tác vụ
Trong các bản văn Tân Ước các thừa tác viên có nhiệm vụ được nhấn mạnh là rao giảng Phúc Âm (1 Cr 1,17) chủ sự các buổi cầu nguyện, cử hành nghi thức bẻ bánh, lo quản lí việc chung.
III. CHIA SẺ VÀ LIÊN KẾT
1. Giáo Hội lan rộng khắp nơi
Từ cuối thế kỉ II, các kitô hữu ý thức rằng tính phổ quát của Giáo Hội là một thực tại cụ thể : các kitô hữu hiện diện khắp nơi, chủ yếu trong đế quốc Rôma. Ở tận Tây Phương, mật độ kitô hữu rất cao, kể cả vùng quê. Ở Tây Phương, Tin Mừng phát triển không đều. Số tín hữu đông đảo ở miền Trung Ý, Nam Tây Ban Nha, Phi Châu các miền Bắc Ý và Galilê ít hơn. Ở Galilê, trừ Lyon và một vài chỗ khác, các Giáo Hội chính được thiết lập vào nửa thế kỉ III.
Ngoài biên giới quốc gia Rôma, vương quốc Edessa (Thổ Nhĩ Kì ngày nay), trở lại khoảng năm 200, trong đế quốc Ba Tư, kitô hữu khá đông ở miền thượng Lưỡng Hà Địa. Armênia theo Đạo khoảng năm 300.
2. Các mầm mống chia rẽ
Vào thế kỉ II, Giáo Hội phải đương đầu với một loạt các học thuyết mà từ đó nhiều nhóm đối nghịch xuất hiện. Các kitô hữu Do Thái muốn duy trì những nét đặc thù về nghi lễ và thần học của họ, trung thành với việc cắt bì và những cấm kị về thức ăn, bảo vệ độc thần giáo của Thánh Kinh, chỉ thấy nơi Đức Giêsu một người được Thiên Chúa nhận làm dưỡng tử khi chịu phép rửa.
Cuộc sống những kitô hữu khác lại bị ảnh hưởng thuyết nhị nguyên Hi Lạp, đối lập vật chất với tinh thần, và bị ám ảnh bởi vấn đề sự dữ, đã giải thích lại cách triệt để Cựu Ước và Tân Ước. Chối việc Nhập Thể, nại đến một loạt tri thức được chuyển đạt cách bí nhiệm cho những nhóm nhỏ. Tri thức này đem lại sự cứu rỗi. Đó là ngộ đạo thuyết Gnosticisme. Ngoài ra, còn giáo thuyết của những người như Marciô, Mani (cũng chịu ảnh hưởng của thuyết nhị nguyên). Đứng trước sự lan tràn của lạc thuyết đó, Giáo Hội phải đối phó thế nào ?
3. Dây liên kết : qui luật đức tin và qui điển Tân Ước
Cuối thế kỉ II, thánh Irénée vạch ra một số học thuyết mà người cho là sai lạc. Đồng thời, cũng cho thấy đâu là Giáo Hội và chân lí đích thực, và điều các kitô hữu nại tới, đó là truyền thống của các Tông Đồ. Truyền thống này có trong các Giáo Hội, có thể đi ngược lên tới các Tông Đồ qua việc kế vị của các giám mục và linh mục. Trong đó có những Sách Thánh đích danh. Nhưng làm thế nào để nhận ra đúng những sách này.
Để nói về Đức Giêsu, người ta nại đến các Tông Đồ và những người gần gũi các ngài. Lúc đầu là chứng bằng lời nói, khi các Tông Đồ qua đời, người ta dùng bản văn của các ngài. Nhưng có quá nhiều bản văn nhận là của các Tông Đồ. Trước sự đa tạp đó, các cộng đoàn tìm hiểu những tiêu chuẩn lựa chọn, cuộc lựa chọn chủ yếu diễn ra ở thế kỉ II. Theo Irénée chỉ có 4 Phúc Âm được khắp nơi chấp nhận là Phúc Âm Mt, Mc, Ga, Lc các thư Phaolô, các thư Phêrô, đôi khi có sự do dự đối với một vài sách Khải Huyền, thư Giuđa... Cuối thế kỉ II đã thiết lập xong qui điển Tân Ước.
4. Thần học khai sinh
Trước tình trạng đủ loại học thuyết nảy sinh, các vị lãnh đạo cộng đồng đã nỗ lực làm cho các tín hữu biết đâu là đức tin chân chính. Các ngài giải thích Sách Thánh được công nhận, chứng minh cho họ thấy Đức Kitô là sự hoàn tất mạc khải.
Chú giải Thánh Kinh như thế nào ? Ban đầu các ngài diễn giải trực tiếp qua các bài giảng trong thánh lễ và khi dạy giáo lí cho dự tòng. Sau đó, nhiều giám mục, linh mục và những vị khác đã trở thành văn sĩ và khai sinh những thần học đầu tiên. Những gương mặt nổi bật đáng kể nhất.
- Thánh Ignace d’Antioche : đầu thế kỉ II. Tích cực bảo vệ thực tại Nhập Thể. Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử, là một con người thật.
- Thánh Irénée : tác phẩm "Chống lạc giáo" tư tưởng thần học của người xoay quanh chủ đề "Ngôi Lời Nhập thể" Thâu thọp cả nhân loại và lịch sử hoàn vũ"
- Origène : người Alexandrie dành cả cuộc đời dạy học và thuyết giảng.
- Tertullien : nhà hộ giáo và thần học với công thức nổi tiếng "máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các kitô hữu".
- Thánh Cyprien (200-258) : giám mục Carthage. Nỗ lực gìn giữ sự hiệp nhất trong Giáo Hội, vì đây là dấu chỉ gặp gỡ Đức Kitô.
Đến năm 313, Giáo Hội được thực sự bình an, nhờ vị Hoàng Đế trở lại Đạo. Đó là Constantinô, đánh dấu bước khởi đầu của "Giáo Hội thời Constantinô", tức là thời mà có một quan hệ mới giữa Giáo Hội và xã hội. Giáo Hội được tháp nhập vào trong một nhà nước tự coi là có Đạo, được nhà nước ưu đãi đặc biệt. Giáo Hội dựa vào Hoàng Đế để chống lạc giáo và ngoại giáo. Đổi lại, nhà nước cũng muốn Giáo Hội trở thành chỗ dựa tinh thần. Hai bên có nhiều chuyện dẫm chân lên nhau. Sau đây ta sẽ thấy những biến đổi của Giáo Hội trong lòng một nhà nước có đạo đầy ưu ái, cũng như những biến đổi của chính xã hội do Giáo Hội thực hiện.
Ta sẽ chia ra ba phần chính yếu :
- Tự do tôn giáo đến quốc giáo
- Sự tiến triển của phụng vụ và việc truyền giáo
- Những bước đầu của chế độ đan tu
I. TỰ DO TÔN GIÁO ĐẾN QUỐC GIÁO
1. Hoàng Đế Constantinô : từ năm 312, sau khi chiến thắng kẻ thù, cuộc chiến thắng này được coi là có Đức Kitô trợ giúp, ông bắt đầu gắn bó với Kitô Giáo. Ông trở lại Đạo, nhưng chỉ xin rửa tội lúc nào trên giường bệnh.
Năm 313, vua Constantinô cai trị phía Tây và Liciniô cai trị phía Đông. Hai Hoàng Đế đối nghịch nhau, Liciniô lại ghét người công giáo. Khi chống Liciniô, Constantinô làm cho người ta có cảm tưởng là ông đang tiến hành một cuộc chiến tranh tôn giáo để bảo vệ Giáo Hội.
Sau khi Liciniô bại trận và bị giết, Constantinô trở thành Hoàng Đế duy nhất, năm 324.
Có thể nói, niên hiệu này bắt đầu "Đế Quốc Kitô Giáo".
Constantinô quyết định xây dựng một thủ đô mới ở phía Đông, gọi là thành Constantinople và ông ở lại đó, qui tụ quanh mình những tín hữu theo văn hóa Hi Lạp. Việc này mang mầm mống chia rẽ Giáo Hội trong tương lai.
2. Vai trò của các Hoàng Đế Công Giáo
Hoàng Đế tự coi mình ngang hàng với các Tông Đồ, hoặc có danh hiệu là Thượng Tế, tức thủ lĩnh tôn giáo như Môsê, David trong Cựu Ước. Do đó, ta hiểu vì sao các ngài lại can thiệp vào việc nội bộ của Giáo Hội. Với danh hiệu này, Hoàng Đế đã triệu tập công đồng.
Các tín hữu biết ơn Hoàng Đế vì được hưởng nhiều đặc ân đặc lợi. Nhiều thánh đường, đền đài được xây dựng, các hàng giáo phẩm có nhiều quyền thế, tài sản kếch xù, ngay cả đặc quyền về pháp lí, tòa án của giám mục... Giám mục được coi ngang hàng với tổng trấn Rôma. Hoàng Đế quan quyền còn đứng ra can thiệp chống lại các bè rối, như Ariô, từ năm 325.
3. Việc loại trừ ngoại giáo
Ngay từ đầu, tức 313, vua Constantinô chấp nhận quyền tự do tôn giáo, phượng tự, với chiếu chỉ gọi là "chiếu chỉ Milan". Các tôn giáo cũ, dù không phát triển nhưng vẫn sống. Trừ bên Đông Phương, trong hầu hết các miền của đế quốc, số kitô hữu chưa tới 50 % dân số. Tôn giáo cổ truyền còn ăn rễ sâu trong các giai cấp xã hội. Tuy nhiên, trong thế kỉ IV, luật pháp ngày càng trở nên bất lợi cho các tôn giáo cũ, các Hoàng Đế dần dần cấm chỉ các nghi lễ ngoại đạo, như cúng tế, ma thuật, bói toán ...
Dưới thời Giulianô (361- 363) : ông là kẻ bội giáo, lại ủng hộ đạo cổ truyền, viết sách vở tố cáo Kitô Giáo, nhưng không thể ngăn chặn nổi đà tiến của Kitô Giáo. Ông bị bại trận, được coi là hình phạt của Thiên Chúa.
Sau ông chết, những vị nối ngôi ông lại gia tăng các biện pháp chống ngoại giáo và cả lạc giáo.
Năm 379 : Gratianô từ bỏ danh hiệu thượng tế.
Năm 380 : Théodosiô coi Công Giáo là quốc giáo. Mọi thực hành ngoại giáo trong đế quốc bị cấm chỉ (392). Những ngày lễ ngoại giáo không còn được cử hành, các đền, chùa miếu đều bị phá hủy. Tình thế hoàn toàn đảo ngược : người ngoại xưa bách hại, nay bị bách hại, nhà nước xưa phục vụ ngoại giáo, nay phục vụ Kitô Giáo. Việc tôn giáo - nhà nước không thể tách rời. Tôn giáo vẫn là nền tảng và là chất keo liên kết xã hội.
4. Kitô Giáo và xã hội
Ngoại giáo bị loại trừ, lịch Công Giáo giữ nhịp đi cho xã hội. Từ năm 325, Chúa Nhật và các ngày lễ lớn Công Giáo là những ngày lễ nghỉ cho cả quốc gia. Kitô Giáo có ảnh hưởng trong pháp chế, nhất là về gia đình. Chế độ nô lệ chưa bị đặt thành vấn đề nhưng việc giải phóng nó rất dễ dàng, và có biện pháp chống chia rẽ gia đình người nô lệ, chế độ nhà tù nhân đạo hơn...
Người Công Giáo quan tâm đến vấn đề thành lập các tổ chức từ thiện. Nhờ các việc đó sau này cơ cấu xã hội cũng sẽ được biến đổi...
II. SỰ TIẾN TRIỂN CỦA PHỤNG VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO
1. Sự tiến triển của phép rửa tội và giải tội. Sau khi Giáo Hội được tự do, dân chúng đua nhau nhập Đạo, nhưng nhiều người lại không muốn tuân giữ những đòi hỏi của phép rửa tội đặt ra, bởi nó rất khắt khe.
Phép giải tội và việc sám hối : phép giải tội chỉ được thực hiện một lần trong đời.
Việc sám hối rất nặng nề, đối với những người tội nặng công khai, có khi phải đền tội kéo dài cả một đời... Sự khắt khe và nặng nề đó, đã gây ra những hậu qủa ngược lại : nhiều dự tòng không dám rửa tội, xin hoãn lại. Nhiều hối nhân xin hoãn việc xưng tội, đợi cho đến lúc già hoặc sắp chết...
2. Thánh lễ, năm phụng vụ và các việc đạo đức : thế kỉ IV đã xác định 2 lễ mừng, ở Đông Phương, ngày 6 tháng 1 : Lễ Hiển Linh ; Tây Phương (năm 330) : ngày 25 tháng 12 là Ngày Sinh của Chúa.
Việc tôn kính các vị tử đạo phát triển mạnh. Trên mộ tử đạo, người ta xây cất các vương cung thánh đường đồ sộ. Nhờ chuộng các thánh tích và hài cốt mà người ta tìm ra thập giá Chúa Kitô cũng như hài cốt các tông đồ. Và quan tâm đến các địa danh Kinh Thánh, tổ chức các cuộc hành hương thánh địa, phong trào sùng kính Đức Maria...
3. Sự tiển triển của việc truyền giáo
Sau khi đa số dân thành phố đã theo Đạo, các giám mục mở rộng về nông thôn, thay thế các đền thờ thần ngoại bằng nhà thờ.
Các xứ đạo thành hình, từ năm 313 - 400 : số tòa giám mục Bắc Ý từ 6 lên 50 tòa, còn tại Galilê từ 22 lên 70 tòa. Bên ngoài đế quốc, nhiều giáo hội đi vào ổn định.
III. NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHẾ ĐỘ ĐAN TU
Thánh Antôn được coi là tổ phụ đời đan tu thu hút nhiều người rời đô thị vào sa mạc. Thánh Pacôm sáng lập lối cộng tu. Thánh Basiliô viết thành tu luật. Tại Tây Phương cuối thế kỉ IV mới có đời tu. Thánh Augustin nối kết đời tu linh mục với đan viện, lập tu viện riêng. Thế nhưng, Tổ Phụ Biển Đức mới tạo thành nếp đan tu ổn định qua nhiều thế kỉ : đan sĩ khấn vĩnh viễn, độc lập về kinh tế đan viện trở thành những trung tâm từ thiện. Đây là vườn ươm giáo sĩ, nhiều thế hệ nối tiếp nhau hoàn thành những sự nghiệp lâu dài.
Trong thánh lễ mỗi Chúa Nhật, chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin bằng Kinh Tin Kính Nicêa - Constantinople. Bản văn này không được soạn thảo trong bầu khí ôn hòa trao đổi ý kiến, nhưng thường là trong những cuộc xung đột dữ dội vượt quá những vấn đề tín lí. Hậu cảnh của việc hình thành Kinh Tin Kính (KTK) là sự xung đột giữa những : cá nhân, văn hóa, địa phương. Những cuộc lưu đày, ẩu đả đẫm máu, những lần quân đội và cảnh sát can thiệp.
I. TRANH LUẬN VỀ THẦN TÍNH
CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ
1. Phái Ariô
Ariô là một linh mục khắc khổ và được quí trọng ở một giáo xứ tại Alexandria. Cũng như nhiều người trước, Ariô muốn bảo vệ các ưu phẩm của một Thiên Chúa duy nhất. Chỉ mình Người là Đấng không có khởi đầu. Sở dĩ Thiên Chúa là Cha, vì một lúc nào đó Người đã sinh ra Con. Vậy Con có khởi đầu. Con không hoàn toàn thuộc cùng một bản tính với Cha. Con lệ thuộc Cha... Ariô dựa vào các bản văn Kinh Thánh (Ga 14,28...) để khẳng định như trên.
Giám mục Alexandria không chấp nhận quan điểm của Ariô. Nếu Ngôi Lời không hoàn toàn là Thiên Chúa, thì loài người không thể được thần hóa hoàn toàn, vì Người không phải là Thiên Chúa nhập thể trong một con người. Vậy, con người không thể được cứu rỗi. Năm 318, Ariô bị vạ tuyệt thông. Dĩ nhiên ông không nhận vạ này. Khi ông đi thăm những người theo ông ở Đông Phương, thì tại đây nhiều người cho rằng quan điểm của ông đúng với truyền thống. Hỗn loạn xảy ra ở Alexandria. Hoàng đế Constantinô muốn có sự yên ổn ở Đông Phương, nên ông khuyên mỗi bên phải cố gắng hòa giải vì đây chỉ là những tranh cãi về từ ngữ. Những xáo trộn vẫn tiếp tục, nên ông quyết định qui tụ các Giám mục họp Đại Công Đồng.
2. Công Đồng Chung đầu tiên - Nicéa (325)
Công Đồng Nicéa là công đồng chung đầu tiên, qui tụ khoảng 300 Giám mục. Đa số các vị này thuộc Đông phương theo văn hóa Hi Lạp, các ngài rất quan tâm đến những tranh luận tín lí. Công Đồng gây ấn tượng mạnh, vì chưa bao giờ các chức sắc của Giáo Hội có mặt đông đủ như thế.
Công Đồng đã chấp nhận bản Kinh Tin Kính của Giám mục Eusêbiô thành Césarée, khi Giám mục này đề nghị. Nhưng theo yêu cầu của Constantinô, các Giám mục thêm tính từ "Homoousios" khi nói về Con Thiên Chúa, nghĩa là Chúa Con cùng một bản thể "Ousia" với Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha. Hạn từ này khẳng định sự ngang bằng hoàn toàn giữa Chúa Cha và Chúa Con. Do đó, (trừ một vài) tất cả các Giám mục đã phê chuẩn hạn từ này.
Quyết định tín lí của Công Đồng Nicéa nhanh chóng gây ra nhiều phản ứng. Nhiều người không chấp nhận hạn từ "Homoousios", vì cho rằng từ này không có trong Kinh Thánh. Giáo Hội Đông Phương không chấp nhận công thức của Công Đồng Nicéa. Giáo Hội Tây Phương La-tinh nói chung là trung thành với Nicéa.
3. Công Đồng Constantinople (381)
Năm 380, hoàng đế Thêodosiô bên Đông Phương quyết định nhận Công Giáo là quốc giáo, và năm 381 triệu tập Công Đồng tại thủ đô Constantinople. Công Đồng này lấy lại Kinh Tin Kính Nicéa và thêm vào đó phần về Chúa Thánh Thần : "Chúng tôi tin Chúa Thánh Thần là Chúa hiển trị và là Đấng ban sự sống. Người bởi Chúa Cha mà ra, và Người cũng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con".
Thế kỉ VII, Giáo Hội La-tinh thêm vào một chữ nổi tiếng "Filioque". Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự li khai giữa Giáo Hội La-tinh và Giáo Hội Hy-lạp ở thế kỉ XI.
II. TRANH LUẬN KITÔ HỌC
1. Nguồn gốc cuộc tranh luận
Suy tư và bàn cãi không bao giờ ngưng nghỉ, khi sự đồng hàng giữa Cha và Con được chấp nhận thì một vấn đề khác lại nảy sinh : phải hiểu thế nào về sự kết hợp giữa thần tính và nhân tính nơi Đức Giêsu ? Ngôi Lời thì vĩnh cửu nhưng Đức Giêsu lại được sinh ra, chịu khổ và chịu chết. Có thể nói rằng Thiên Chúa đã được sinh ra, chịu khổ và chịu chết không ? Nếu tách rời Thiên Chúa và con người nơi Đức Giêsu, thì nói thế nào về nhập thể, về xác phàm được Ngôi Lời mặc lấy ?
Ở Alexandria, người ta nhấn mạnh sự duy nhất của Đức Kitô, khởi đi từ Logos (Ngôi Lời). Đức Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa mặc lấy một xác phàm. Chính đó là điều kiện để con người được thần hóa. Còn ở Antiokia, người ta lại nhấn mạnh hai khía cạnh của hữu thể Đức Kitô, tức là hai bản tính khởi đi từ bản tính để đi đến sự duy nhất, và giữ vững nhân tính đầy đủ của Đức Kitô.
Sự dị biệt hai quan điểm trên đã biến thành cuộc xung đột mạnh mẽ qua lại đối đầu giữa hai Giám mục là Cyrillô thành Alexandria và Nestôriô thành Constantinople. Nestôriô chỉ trích lối tôn sùng bình dân gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Théotokos). Theo Nestôriô hạn từ này không có trong Kinh Thánh, và Đức Maria chỉ là Mẹ của con người Giêsu. Đối lại, Cyrillô muốn bảo vệ tính duy nhất của Đức Giêsu và niềm tin phổ biến của tín hữu. Người cho rằng chỉ có một "bản tính" duy nhất trong Đức Kitô.
Cyrillô liên lạc với Giám mục Rome là Célestino, người kết án Nestôriô năm 430. Cyrillô yêu cầu Nestôriô kí một bản văn xác nhận nơi Đức Kitô, Ngôi Lời và con người kết hợp trong một bản tính mà thôi. Nhưng Nestôriô lại tố cáo Cyrillô theo lạc thuyết Apollinariô. Vì việc này, hoàng đế Thêodosiô triệu tập công đồng tại Êphêsô yêu cầu mọi Giám mục hiện diện.
2. Công Đồng Êphêsô (431)
Cyrillô chủ động khai mạc công đồng cho dù nhiều giám mục chưa có mặt và dù đại diện Hoàng Đế phản đối. Nestôriô bị hạ bệ như một Giuđa mới, một kẻ lạc giáo. Quần chúng tán thành phấn khởi. Nhưng không lâu sau đó các giám mục theo phe Nestôriô và những vị không tán thành hành động của Cyrillô lần lượt tới. Họ lên án Cyrillô và các bạn của Người. Để giải hòa 2 bên, đại diện Hoàng Đế đã truất phế cả Nestôriô lẫn Cyrillô, Cyrillô trốn được và trở về Alexandrie như một kẻ chiến thắng, còn Nestôriô kết thúc cuộc đời trong cảnh lưu đày.
Nội dung tín lí của Công Đồng Êphêsô thực chất là củng cố uy tín Nicéa và nhấn mạnh sự duy nhất của Đức Kitô. Hạn từ Théotokos sẽ không còn bị tranh cãi nữa.
Năm 433, một đối thủ của Cyrillô là Gioani, giám mục Antiokia đề nghị một công thức hòa giải : "Có một sự kết hợp không lẫn lộn giữa hai bản tính, và do sự kết hợp này, chúng ta tuyên xưng rằng Đức Trinh Nữ Thánh là Théotokos, bởi vì ngôi Con Thiên Chúa đã trở thành xác phàm và đã làm người"
. Cyrillô phấn khởi nhận công thức này. Giám mục Rôma là Sixtô chúc mừng sự hòa hợp của hai người bằng cách phê chuẩn công thức.
3. Tranh luận tiếp tục Công Đồng Calcêđônia (451)
Dù đã có công thức hòa giải trên, nhưng các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục, và lần này là Eutykê, một đan sĩ ở Constantinople. Eutykê cho rằng trong Đức Kitô, thần tính làm nhân tính tiêu tan. Thân xác Đức Kitô không cùng bản chất với thân xác ta. Đó là thuyết nhất tính. Ông bị kết án và bị vạ tuyệt thông trong một hội nghị do giám mục Constantinople là Flavianô triệu tập. Eutykê kháng cáo lên Giáo Hoàng Lêô (440 - 461) và Dioscorê, giám mục Alexandrie.
Hoàng Đế Théodosiô II, bạn của Eutykê triệu tập Công Đồng. Hầu như ông chỉ mời những người theo phe Eutykê và giám mục Rôma. Đức Lêô giao cho các đặc sứ của Người một bản văn trình bày mầu nhiệm nhập thể. Theo Người, Đức Kitô có một thân xác đích thực, cùng bản tính với thân xác của Mẹ Người. Cả hai bản tính được bảo toàn, kết hợp với nhau trong một ngôi vị duy nhất. Trong tiếng Latin, từ lâu, người ta đã làm sáng tỏ sự phân biệt giữa bản tính và ngôi vị, còn trong tiếp Hi Lạp thì không như vậy. Công Đồng họp tại Êphêsô năm 449 do Dioscorê chủ động : Flavianô và những vị khác phân biệt hai bản tính bị truất phế. Đức Lêô gọi đây là "Mẻ cướp ở Êphêsô".
Đường lối chính trị và tôn giáo mới của Marcianô đã khiến ông triệu tập một Công Đồng mới ở Calcêđônia. Đặc sứ của Giáo Hoàng chủ tọa Công Đồng, Flavianô được phục hồi danh dự. Kinh Tin Kính Nicée - Constantinople được tuyên đọc. Công Đồng công bố một công thức đức tin "Đức Kitô là một ngôi vị trong hai bản tính".
Kể từ nay, công thức này là nền tảng của Kitô Học.
I. GIÁO PHỤ LÀ NHỮNG AI ?
1. Những người cha trong đức tin
Từ "Phụ" (Cha) hướng chúng ta về cội nguồn, về tổ tiên. Chúng ta nói về người cha trong đức tin. Thời Thượng cổ, người thầy được gọi là cha, tức người thông truyền sự khôn ngoan. Hạn từ được dùng rộng rãi trong Giáo Hội. Trong những thế kỉ đầu nhiệm vụ giảng dạy thuộc về Giám mục nên các ngài được gọi là cha, nhiều người là nhà giáo huấn hay giảng thuyết dù không phải là Giám mục cũng được mang danh hiệu đó. Hạn từ này chứa đựng sự an toàn, tin cậy. Cha là người mang truyền thống.2. Những người gần với nguồn mạch.
Những bản văn của các Giáo Phụ dẫn chúng ta đến nguồn mạch đức tin, mà xét theo thời gian các ngài gần gũi hơn chúng ta. Giáo Phụ ở vào số những độc giả đầu tiên của Tân Ước. Các ngài ban Tân Ước cho các tín hữu làm lương thực trong một ngôn ngữ chưa bị hệ thống hóa. Các ngài đề ra một cách đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Kitô học, có Chúa Thánh Thần linh hứng. Vì vậy, trở về với những bản văn Giáo Phụ giúp ta hiểu hơn sứ điệp Kitô giáo khi chưa bị con người tô vẽ. Truyền thống thường coi thời Giáo Phụ bắt đầu với những tác phẩm tiếp sau Tân Ước và chấm dứt ở thế kỉ thứ VII.3. Những chứng nhân của cuộc gặp gỡ giữa Phúc Âm và các văn hóa
Các Giáo Phụ không chỉ dừng lại ở việc suy niệm Kinh Thánh, hoặc đưa ra những huấn dụ luân lí sử dụng trong nội bộ cộng đồng. Hoàn cảnh buộc các ngài bảo vệ ki-tô giáo đang bị tấn công nhân danh lí trí. Các ngài đã loan báo Phúc Âm bằng những phạm trù văn hóa Hy-La để người nghe hay đọc có thể hiểu được. Các ngài tìm những điểm hội tụ giữa sự khôn ngoan Hy-lạp và sứ điệp Kitô giáo. Dần dần các Giáo Phụ biến tất cả văn hóa cổ thành của mình bằng cách Kitô hóa nó.4. Những người bảo đảm cho sự chính thống và sự thánh thiện của Giáo Hội
Các Giáo Phụ là những chứng nhân ưu tuyển của truyền thống Giáo Hội, tức của Phúc Âm được sống trong những thế kỉ đầu. Vì thế, nếu như truyền thống Giáo Hội đòi các ngài phải có giáo lí chính thống thì cũng đòi các ngài phải có sự thánh thiện. Giáo Phụ là người sống điều mình dạy.II. THỜI HOÀNG KIM CỦA CÁC GIÁO PHỤ
Nhờ Giáo Hội được bình an và các Công Đồng lớn được triệu tập mà văn chương Kitô giáo có điều kiện triển nở. Thời kì từ Công Đồng Nicêa (325) tới Công Đồng Chalcédônia (451) được coi là thời vàng son. Chúng ta ghi nhận một số tên tuổi.1.Các đại Giáo Phụ Hy lạp
Các văn sĩ Kitô giáo lớn nhất thế kỉ IV đều thuộc văn hóa Hy lạp.- Athanasiô (295-373) trưởng thành cùng thời với lạc giáo Ariô. Năm 328 làm Giám mục Alexandria. Ngài bảo vệ đức tin của Nicêa, chống lại lạc giáo Ariô. Bị trục xuất khỏi Alexandria năm lần. Tác phẩm của Ngài chủ yếu bảo vệ trình bày thần học về Ngôi Lời Nhập Thể đồng hàng với Chúa Cha.- Basiliô (330-379) sống đời đan tu trước khi làm Giám Mục tại Césaréa. Ba mối bận tâm chính: tổ chức bác ái ; tổ chức một đời sống đan tu cộng đồng ; quan tâm đến sự chính thống và hiệp nhất Giáo Hội.- Grégoriô thành Nazianzé (330-390) bạn thân của Basiliô.2.Các đại Giáo Phụ La tinh
- Ambrosio (340-397) tổng trấn Milano. Còn đang là một dự tòng ngài đã được một trẻ em la lên: "Ambrosio là Giám Mục". Trong vài ngày người lãnh bí tích Rửa tội rồi chức Giám Mục. Phân phát của cải cho người nghèo và yêu cầu tín hữu thực thi công bình xã hội. Ngài chu toàn mọi chức năng của Giám Mục.- Giéronimo (347-420) quê ở Đanmatia (Nam Tư). Sống đời sinh viên phóng đãng ở Rôma. Sống thử đời đan tu ở Đông phương, chịu chức linh mục miễn cưỡng. Đến Rôma lần hai giúp Đức Giáo Hoàng và các nhóm phụ nữ đạo đức. Rồi đến Belem. Ngài là một người hay thay đổi, khó tính, lời lẽ thô bạo, có nhiều kẻ thù. Hoạt động của ngài chủ yếu dành cho Thánh Kinh. Ngài duyệt lại bản văn Kinh Thánh La-ngữ. Thực hiện một bản dịch mới về Cựu Ước dựa trên bản gốc Hipri và Aram. Bản Kinh Thánh mới này được gọi là Bản Phổ thông (Vulgata). Đây là bản Kinh Thánh chính thức trong Giáo Hội. Giéronimo còn để lại những bản diễn giải Thánh Kinh, những tác phẩm bút chiến và những lá thư đáng lưu ý.Mười thế kỉ ở giữa thời Thượng cổ và thời phục hưng (thế kỉ XVI) được gọi là thời Trung cổ. Các nhà nhân bản thế kỉ XVI muốn ám chỉ với một chút miệt thị, thời kì trung gian giữa họ và nền văn minh cổ đại mà họ muốn phục hồi. Biết bao biến cố đã diễn ra trong một nghìn năm. Thời Trung cổ gợi lên cho ta các Đại Giáo đường, thập tự chinh... Nói cách khác cả một Kitô giới. Nhưng để đạt tới đó chúng ta phải rảo qua sáu thế kỉ đen tối, trong đó văn minh Âu châu dựa trên Kitô giáo hình thành rất vất vả.
I. CÁC CUỘC XÂM LĂNG VÀ ĐỊA LÍ TÔN GIÁO MỚI
1. Cuộc xâm lăng của dân Man-di.
Những năm đầu thế kỉ V, nhiều sắc dân Germani bị dân Hung nô áp đảo đã vượt sông Đanubê và sông Rhin tràn vào đế quốc Rôma. Năm 410, thành Rôma bị dân Wisigothi của Alarico chiếm đóng và tàn phá. Năm 455 thành Rôma lại bị quân Valđali của Gensenico cướp phá. Năm 476 hoàng đế Rôma cuối cùng là Rômalo Augusto bị một người man-di là Odoacro hạ bệ. Thế giới cổ đại Tây phương không còn nữa, phân thành nhiều vương quốc man-di.2. Cuộc xâm lược của Hồi giáo và người Ảrập
Trước các đế quốc đã suy sụp là Rôma và Ba-tư, người Ảrập tạo thành một lực lượng quân sự mới. Họ tung ra các cuộc tấn công như vũ bão, hăng say đón nhận cái chết trong "nỗ lực trên con đường của Thiên Chúa". Những kẻ xâm lược có thêm lợi thế nhờ thái độ thụ động của dân vùng Đông phương là Syria và Aicập là những vùng thường xuyên tranh chấp với Constantinopoli về các vấn đề tín lí và chủng tộc, nên đôi khi còn có kẻ xâm lược là người giải phóng. Nhiều vùng ở Đông phương và Ba Tư bị chiếm đóng. Cuối thế kỉ VII đến lượt Bắc phi, dù nơi đây có sự chống cự mãnh liệt hơn. Năm 711 người Aírập và Berberi theo đạo Hồi đánh Tây Ban Nha, tiến tới tận Poitiers của Gallia (732). Tuy không vào được trung tâm Âu châu nhưng người Hồi giáo đã kiểm soát được cả Địa Trung Hải.3. Một địa lý mới về tôn giáo
Trọng tâm của Giáo Hội chuyển rời: các Giáo Hội Kitô cổ kính nhất ở Đông Phương và Bắc Phi rơi vào ách thống trị của Hồi giáo. Ở Bắc Phi, các cộng đồng Kitô giáo tàn lụi dần. Những kitô hữu cuối cùng biến mất vào đầu thế kỷ XII. Như vậy trọng tâm Giáo Hội không là Địa Trung Hải với trung tâm Rôma, nhưng đã dời lên phía Bắc. Sự hiện diện của người Ảrập trên biển này còn làm cho liên lạc giữa Tây và Đông thêm khó khăn. Hơn nữa khu vực Tây và Đông đã bị người Slova tràn chiếm vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII. Những nét chính của một địa lý kitô giáo mới đã được ấn định.II. TÁI THIẾT THẾ GIỚI KITÔ GIÁO LẦN I
1. Phục hưng dưới thời Carôlô
Các vua dòng họ Carôlô coi mình có bổn phần tái lập trật tự trong Giáo Hội, và gây dựng một chút uy tín cho Giáo Hội, do đó, có thể coi đây là thời phục hưng dưới triều đại dòng họ Carôlô.2. Những thăng trầm của đế quốc Byzantino
Truyền thống Byzantino coi các ảnh tượng đóng một vai trò sư phạm. Chúng là những "Bài giảng thầm lặng", là "sách dành cho người mù chữ".Cuối thế kỷ IX khi Giáo Hội Tây phương lại bị sa sút thì đế quốc Byzantinô bước vào một thời kỳ rực rỡ. Ngoài các thành công về quân sự và các công trình văn chương, đời sống đan viện phát triển mạnh mẽ.3. Công cuộc truyền giáo
Ở Tây Phương, các cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông và Tây, không ngăn cản đà tiến của việc truyền giáo. Tiền bán thế kỷ VIII, nhà truyền giáo nổi tiếng là Bonifaciô (680 - 754) tổ chức lại Giáo Hội ở Gallia, lập nhiều tòa Giám Mục và tu viện trước khi tử đạo ở Hòa lan.- Nơi dân Slova: Hylạp và Latinh tranh nhau truyền giáo cho người Slova ở đồng bằng sông Danube.III. TÌNH HÌNH ĐEN TỐI CỦA GIÁO HỘI
1. Thời kỳ đen tối của Tây phương cuối thế kỷ IX-X
Sự thống nhất của đế quốc Franci không còn nữa. Hòa ước 843 chia vương quốc thành ba phần: vương quốc Pháp, vương quốc Đức và một vương quốc trải dài từ Hắc hải tới Nam Ý. Vương quốc này sẽ sớm biến thành vô số các vương quốc. Ngoài cuộc nội chiến, các đợt xâm lăng mới làm tan rã hoàn toàn sự ổn định của Tây phương.2. Giáo Hội trong chế độ phong kiến
Người nắm giữ một chức vụ trong Giáo Hội có một phần đất, một bổng lộc để sống. Giám Mục là lãnh chúa và chư hầu như các giáo dân.3. Đoạn giao giữa Giáo Hội Latinh và Hylạp:
Cuộc li khai 1054
Từ thế kỷ V, hố ngăn cách Giáo Hội Latinh và Giáo Hội Hy lạp không ngừng tăng lên với các lý do chính trị, văn hóa và tín lý.Hạn từ "Kitô giới" chỉ một hình thức quan hệ giữa Giáo Hội và xã hội thời Trung cổ. Một trong những nét nổi bật nhất của Kitô giới là vị trí nổi bật nhất của ngôi Giáo Hoàng. Vị trí này đạt được bằng các cuộc đấu tranh thường là dữ dội với hoàng đế Đức. Tuy nhiên, thế quân bình lúc nào cũng mong manh. Nếu như nửa đầu thế kỷ XIII, uy quyền Giáo Hoàng đạt tới đỉnh cao thì những năm cuối thế kỷ, người ta lại thấy có sự chống đối nghiêm trọng đối với những tham vọng của Rôma, và những rạn nứt đầu tiên của Kitô giới.
I. CÁC NỀN TẢNG CỦA KITÔ GIỚI THỜI TRUNG CỔ
1. Khẳng định quyền Giáo Hoàng
Năm 1059, tòa thánh xác định luật bầu giáo hoàng. Giáo Hoàng sẽ do các Hồng Y bầu, các giáo sĩ khác và dân chúng chỉ còn hoan hô vị đắc cử. Do việc này mà các hồng y đóng vai trò đặc biệt trong Giáo Hội. Đây là những thành viên quan trọng nhất của hàng giáo sĩ Rôma. Hoàng đế khó lòng chấp nhận luật trên, vì ông mất quyền chỉ định Giáo Hoàng. Trong những lúc khủng hoảng sau này, ông sẽ chỉ định Giáo Hoàng của mình đối nghịch với các vị do Hồng Y đoàn bầu chọn.2. Giáo Hội đan viện
Các đan sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc cải tổ và trong tất cả đời sống Giáo Hội thời trung cổ. Trong một thời gian dài, đan sĩ tượng trưng cho người kitô hữu lý tưởng.II. CÁC CÔNG TRÌNH CỦA ĐỨC TIN
1. Tôn giáo đan viện và tôn giáo bình dân
Tôn giáo thời Trung cổ vay mượn nhiều nét của xã hội phong kiến và nông nghiệp. Thiên Chúa ở trên chóp đỉnh của phẩm trật phong kiến. Ngài là Chúa tối cao, mọi lãnh chúa trần gian chỉ là chư hầu và nông nô của Ngài.2. Sự tiến triển của bí tích và phục vụ
Thế kỉ XII-XIII, Giáo Hội ấn định giáo lí về bảy bí tích, cố gắng tái lập một kỉ luật chung.3. Đời sống tôn giáo và trần tục
Đặc điểm của thời Trung cổ là sự có mặt khắp nơi của một tôn giáo thuộc về đời sống công cộng. Đó là sự pha trộn trần tục và thiêng liêng : tôn giáo không biết đến những ô ngăn như ngày nay.III. VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT
1. Một văn hóa xây dựng trên đức tin
Như đã thấy trong thời Thượng - Trung cổ hoạt động trí thức là một nét chuyên biệt của đan viện. Việc phát triển Kitô giới vào các thế kỉ VII-XIII làm gia tăng những nhu cầu trí thức. Cuộc cải tổ của Đức Grêgôriô khuyến khích các môn luật. Trong truyền thống đan viện, công tác trí thức chủ yếu là diễn giải Thánh Kinh.2. Nghệ thuật dân gian Kitô giáo
Đức tin của người Kitô hữu còn được diễn tả qua kịch tuồng tôn giáo bình dân. Các vở kịch phụng vụ trình diễn Cựu Ước và Tân Ước ngay trong nhà thờ hoặc ở tiền đường.Là một thực tại vừa trần thế vừa thiêng liêng một xã hội muốn trở thành một toàn thể đồng nhất đặt nền tảng trên Kitô giáo, Kitô giới thây mình cần phải chiến đấu chống lại kẻ thù của đức tin.
Bên ngoài, có Hồi giáo, bên trong có lạc giáo. Thế là Kitô giới trang bị vũ khí đi thập tự chinh, tổ chức giáo tòa để trấn áp. Nhưng mọi sự không vì thế mà được giải quyết. Không thể áp đặt Tin Mừng bằng vũ lực. Từ sự nghi ngờ về thập tự chinh nảy sinh ý muốn truyền giáo. Từ sự phản kháng có màu sắc Tin Mừng, trước một số cách hành xử của Giáo Hội, thể chế nảy sinh những hình thức tu trì mới.I. KITÔ GIỚI BÀNH TRƯỚNG:
THẬP TỰ CHINH VÀ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô giới vũ trang
Ý thức về chính mình và sự duy nhất của mình bằng cách qui tụ lại và vũ trang chống kẻ thù chung là Hồi giáo đang chiếm đóng Thánh Địa và đe dọa các Kitô hữu Đông Phương. Thập tự chinh bắt nguồn từ việc hành hương Giêrusalem. Hành hương trước là một nghi thức thanh tẩy và đền tội, họ có thể chết nơi Đức Kitô, chết để cùng sống lại với Ngài lúc phán xét. Nhưng các cuộc hành hương đó rât khó khăn do một lực lượng Hồi giáo đe dọa. Họ chiếm Giêrusalem (1099) với những cuộc tàn sát khủng khiếp. Nhưng đến 1187 vua Hồi giáo đã chiếm lại. Năm 1291, không còn một bóng dáng thập tự quân nào ở Palestin. Từ 1099 đến 1270 có tất thảy tám cuộc thập tự chinh, nhưng tất cả đều kết thúc trong thất bại. Tuy nhiên, phần nào góp phần gắn bó Kitô giáo Tây phương, củng cố quyền lực Giáo Hoàng, nhưng mặt khác lại đào sâu hố chia cắt, chia rẽ giữa tín hữu Đông và Tây.2. Công cuộc truyền giáo
Thập tự chinh thất bại khiến người ta thêm tỉnh ngộ, thay vì tận diệt Hồi giáo, tốt hơn là thuyết phục họ. Lần thập tự chinh (1218) thánh Phanxicô Assisi đã gặp vua Hồi giáo Aicập, cũng như những người khác cho rằng cảm hóa là công trình của tình yêu, được thực hiện bằng sự hiểu biết, và như thế, dưới sự hướng dẫn của các tu sĩ Phan Sinh và Đa Minh, họ tự tổ chức để thực hiện những chuyến viễn hành này, và tự gọi là những "Anh em viễn hành". Họ có mặt ở Trung Á, vịnh Ba tư, Ấn Độ, cho đến tận Trung Quốc.II. KITÔ GIỚI BỊ PHẢN KHÁNG
1. Những cuộc phản kháng
Một số trong Giáo Hội dựa vào Tin Mừng chống lại một Giáo Hội quá giàu có, họ phản ứng trước những linh mục tham tiền hay sống tư hôn. Họ muốn Giáo Hội trung thành với tinh thần nghèo khó của Đức Kitô trong Phúc Âm. Trong số này nổi bật nhất là phong trào "Những người nghèothành Lyon" do Valdo phát động khoảng năm 1173. Nhưng phong trào này bị trục xuất ra khỏi Giáo Hội. Các phong trào, các giáo thuyết khác lại xuất hiện, họ muốn trở về với Tin Mừng và Giáo Hội thuở đầu, bởi trước sự buông thả của hàng giáo sĩ, nên nhiều người theo giáo phái để phản đối Giáo Hội.2. Sự xuất hiện của các dòng khất thực
Lí tưởng trở về với Tin Mừng, nó tạo ra một hình thức tu trì mới. Tuy nhiên sự đáp ứng của thánh Đa Minh và thánh Phanxicô Assisi hơi khác nhau.III. KITÔ GIỚI TỰ VỆ: TRẤN ÁP LẠC GIÁO
1. Thái độ đối với người Do thái
Tuy không là lạc giáo nhưng không cùng một đức tin với Kitô giáo. Người theo Do thái giáo bị coi là con cháu của kẻ giết Chúa. Do vậy, cả giáo thuyết lẫn người theo đều là đối tượng để Kitô giới trấn áp. Công Đồng Latêranô III (1179) và IV (1215) gia tăng biện pháp phân biệt đối xử với người Do thái: bât phục sức riêng biệt, cấm một số nghề, câm kết hôn với người Kitô hữu, sống trong những khu đặc biệt, trục xuất khỏi một số nước. Đôi khi còn có những tập tục hành hạ. Tuy nhiên, Giáo Hội đối xử với người Do thái lúc ấy vẫn tốt hơn nhiều so với các vua chúa.2. Trấn áp lạc giáo
Thế kỉ XI-XII số người li khai dường như đông thêm, đứng trước tình hình đó và do áp lực của quần chúng, đã có nhiều nhà lạc giáo bị nhà vua ra lệnh thiêu sinh. Một sắc lệnh của Tòa thánh (1140) đề ra ba giai đoạn của thủ tục chống lạc giáo: cố gắng thuyết phục, phạt theo giáo luật, cuối cùng nhờ đến phần đời.3. Hình thức trân áp đặc biệt: giáo tòa
Ra đời vào những năm 1220-1230 khi chính quyền và giáo quyền hợp tác để truy lùng những kẻ lạc giáo và trừng trị họ. Rồi do ý muốn của Giáo Hoàng, tổ chức này mở rộng khắc Giáo Hội. Hồi đó khi nói "Hình phạt cần thiết" là nói đến thiêu sống. Tuy nhiên còn nhiều hình phạt khác nữa.I. TINH THẦN "ĐỜI" PHÁT SINH
1. Cẳc chế độ quân chủ vươn mạnh
Như ta đã thấy, việc các Giáo Hoàng chống các hoàng đế Đức, khiến cho quyền của các người này suy yếu. Thậm chí có thời gian (1254-1273) ngôi hoàng đế còn khuyết vị nữa. Các Giáo Hoàng đã lạm dụng vũ khí tinh thần cho mục đích trần tục, như vạ tuyệt thông. Sự suy tàn của đế quốc có lợi cho chế độ quân chủ Tây phương. Các chế độ này củng cố vị trí mình bằng cách sử dụng quyền phong kiến có lợi cho mình. Tất cả các vương quốc Tây phương này dần dần trở thành các quốc gia theo nghĩa hiện đại, khi manh nha thi hành đường lối cai trị trung ương tập quyền. Và khi hùng mạnh hơn, các quốc gia này lại xung đột với nhau, chẳng hạn cuộc chiến trăm năm (1337-1453) giữa Anh và Pháp. Đồng thời trên đường củng cố và mở rộng quyền bính, các vương quốc này gặp trở ngại quyền hành của Giáo Hoàng. Đây là một căn nguyên mới cho các cuộc xung đột.2. Cuộc xung đột đầy ý nghĩa giữa Philippe le Bel và Giáo Hoàng Bonifacio VIII
Các vua chúa ngày càng từ chối sự can thiệp của Giáo Hoàng vào Giáo Hội nước họ, đồng thời khẳng định quyền của mình trên những vụ việc thuộc Giáo Hội trong nước. Vua nước Pháp là Philippe le Bel (1285-1314) và Giáo Hoàng Bonifacio VIII (1294-1303) hai lần đụng độ nhau dữ dội. Tranh chấp lần đầu tiên liên quan đến quyền của Giáo Hội được miễn thuế. Cuộc tranh chấp lần hai liên quan đến quyền miễn tố của giáo sĩ. Nhà vua đã đưa ra tòa án triều đình một Giám Mục được Bonifacio đỡ đầu. Hai bên đối xử hung hãn với nhau cả về ngôn từ và hành động. Nhắc lại những tiền lệ, Giáo Hoàng dọa hạ bệ nhà vua. Phía cận thần của nhà vua tấn công lại. Họ tố cáo Giáo Hội đủ mọi tật xấu, kích động tình cảm quốc gia và tình cảm đạo đức của dân chúng. Đem quân đến Agagni (1303) đe dọa Giáo Hoàng. Quá xúc động vị Giáo Hoàng cao niên đã qua đời một tháng sau.3. Tinh thần đời
- Thế kỉ XIV có nhiều sách bàn về các quyền của Giáo Hoàng và vua chúa. Ngoài những bút chiến, những lời thóa mạ, các sách này còn đưa ra những suy nghĩ về bản chất của nhà nước và Giáo Hội. Đây là điều mà người ta gọi là "sựphát sinh tinh thần đời". Nét đặc trưng của tinh thần đời là : sự độc lập của nhà nước trong lãnh vực trần thế, sự nhấn mạnh đến định nghĩa Giáo Hội như toàn bộ các tín hữu chứ không giới hạn trong định chế giáo sĩ.II. KHỦNG HOẢNG TRONG GIÁO HỘI
1. Các Giáo Hoàng ở Avignon (1305-1377)
Một năm trống ngôi sau khi đức Bonifacio qua đời, các hồng y bất đồng với nhau, cuối cùng đã chọn Tổng Giám Mục Bordeaux làm Giáo Hoàng danh hiệu là Clémenté V vì ngài tỏ ra là người đã hòa giải vấn đề tranh chấp giữa vua Pháp và Giáo Hoàng. Nhà vua nhờ tân Giáo Hoàng làm trung gian hòa giải Anh và Pháp. Hơn nữa nước Tòa thánh đang xáo trộn và còn nhiều sự kiện khác, tất cả đã cầm chân đức Clémente tại Pháp không tới Rome được. Cho đến năm 1377, các Giáo Hoàng thích ở Combat-Veirsaille hoặc Avignon, cả hai nơi thuộc quyền sở hữu của Tòa thánh. Chưa bao giờ Giáo Hoàng rời khỏi nước Ý lâu như vậy. Người Rome gọi đây là cuộc lưu đầìy Babylon.2. Đại li giáo Tây phương (1378-1417)
Dư luận kitô hữu làm áp lực để Giáo Hoàng trở về Rôma, đặc biệt lời van xin của Birgitta nước Thụy Điển và Catarina Xiêna. Giáo Hoàng Urbano V về Rôma được ba năm rồi quay lại Avignon. Năm 1377 đức Grêgôriô XI quyết định vĩnh viễn lập giáo triều ở Rôma.Cuộc trở về diễn ra trong bạo loạn, nhiều người chết. Các hồng y Pháp đến Rôma cách miễn cưỡng. Đức Grêgôriô sớm qua đời năm sau. Người Rôma đòi một Giáo Hoàng mới người Ý. Các Hồng Y đã bầu theo đòi hỏi đó, tức là Urbano VI. Nhưng các Hồng Y Pháp không chịu nổi Giáo Hoàng mới và đã bỏ Rôma. Họ tiến hành cuộc bầu cử mới, tức Clémenté VII. Chia rẽ lớn. Giáo Hoàng mỗi bên qua đời thì mỗi bên lại bầu Giáo Hoàng mới. Các vua chúa lại có dịp nhúng tay vào đời sống Giáo Hội trong nước họ.3. Khủng hoảng về công đồng
Theo qui định của công đồng Constantia, Giáo Hội triệu tập công đồng Pavia rồi Bale (1431) - cải cách đang là vấn đề thời sự : điểm chính yếu là giảm thuế. Đa số tại công đồng chống Đức Giáo Hoàng. Năm 1437 Giáo Hoàng Eugenio IV quyết định rời công đồng về Farrare rồìi về Florentina. Nhưng một số Giám Mục ở lại cùng với ba trăm giáo sĩ cách chức đức Eugenio, đặt một quận công lên làm Giáo Hoàng, hiệu là Fêlixio V rốt cuộc phe li khai này chỉ làm trò cười. Vì ở Florentia đã có những kết quả sáng sủa hơn.III KHỦNG HOẢNG TRONG ĐỜI SỐNG
1. Những tai họa của thời đại
Tai họa xảy ra suốt thế kỷ XIV-XV : khủng khiếp nhất là trận dịch hạch là "Hăc dịch", phát xuất từ châu Á lan sang châu Âu từ năm 1347 và xuất hiện nhiều lần trong thể kỷ. Một phần 3 số người ở châu Âu chết. Chiến tranh kéo dài 100 năm phá họai không thua dịch hạch.2. Khủng hoảng về tri thức
Những tai họa thời đại đã gây xáo trộn trong Giáo Hội. Triết học và thần học mất thế quân bình, nhiều tư tưởng mới xuất hiện.3. Những biến đổi trong đời sống ki tô giáo
Khắc khỏai trước cái chết, lo âu về phần rỗi, mất tin tưởng vào định chế Giáo Hội, tất cả đã làm biến đổi trong đời sống đạo.IV. TÌNH HÌNH GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG
Công dông Firenze 1439 làm ta chú ý đến Giáo Hội Hi lạp và con là Giáo Hội Nga. Cũng như nhiều Giáo Hội Đông phương khác đã kí với Rôma những văn kiện hợp nhất nhưng không được thi hành : phía Hi lạp mong được viện trợ quân sự. Còn Rôma muốn tái khẳng định quyền tối cao của mình trên toàn thể Giáo Hội.1. Các Giáo Hội thuộc thế giới Slavô
Giáo Hội Bungari, Serbia giao động giữa hai vùng ảnh hưởng của Constantinôpôli và Rôma. Hai Giáo Hội này trở thành tự trị thế kỉ XIII.2. Ngày tàn của đế quốc Byzantiô
Đế quốc Byzantiô được tái lập 1261. Sau thời gian xen kẽ Constantinôpôli ở trong tay người Latinh. Năm 1453 quân Thổ bao vây Constantinôpôli và phá tan tành. Moskva thừa kế 1461.3. Linh đạo Đông Phương
Các Giáo Hội Đông phương có nhiều điểm chung : linh đạo của họ chịu ảnh hưởng của đan viện, và các truyền thống nghệ thuật của họ được thâu tóm nơi các ảnh thánh.SAU MƯỜI LĂM THẾ KỈ
Giữa thế kỉ XV, ngôi Giáo Hoàng dường như tìm lại được uy tín và sự hiển hách của mình. Vị Giáo Hoàng cao niên cuối cùng từ chức năm 1449.I. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC TRUYỀN GIÁO
1. Điều kiện và động cơ
- Công cuộc Truyền giáo cho toàn thế giới gắn liền với những khám phá lớn, nên tùy thuộc rất nhiều vào những điều kiện vật chất, thương mại và chính trị của các cuộc chinh phục xa xôi. Mặt khác, do phương tiện và thời tiết, các cuộc hải hành vẫn chậm và đầy nguy hiểm gây ra những hệ quả quan trọng cho công tác Truyền giáo.
- Công cuộc Truyền giáo dĩ nhiên có mục tiêu rao giảng Tin Mừng, nhưng không thể không lưu ý tới nhiều động cơ khác, đặc biệt nơi những người khám phá: nào là đi tìm những nguồn vàng, để có thể buôn bán ; nào là đi tìm những gia vị rẻ hơn (hồ tiêu), đất đai trồng trọt và nô lệ. Tất cả những động cơ trên đây đan chéo vào nhau. Người khám phá, kẻ chinh phục, nhà Truyền giáo có những hành xử mà ngày nay chúng ta coi là dường như nghịch lý và gây gương mù: họ vừa cắm Thánh giá, vừa tàn sát người da đỏ.
2. Tổ chức Truyền giáo
- Chế độ bảo trợ: trong thế kỷ XV, Tòa thánh cho các vua Bồ được quyền tài phán cả trong việc trần thế lẫn trong việc thiêng liêng ở những vùng đất mà họ chiếm được hay khám phá ra. Việc ông Christopho Colombo khám phá Châu mỹ (1492) gây ra căng thẳng giữa hai cuốc gia hùng mạnh trên bán đảo Iberic. Đức Giáo Hoàng Alex. VI phải đứng ra làm trọng tài. Ngài chia: Tây thuộc Tây Ban Nha, Đông thuộc Bồ Đào Nha. Trong lãnh thổ thuộc quyền mình, hai vua có trách nhiệm tổ chức Giáo Hội: phân định ranh giới giáo phận, bộ nhiệm Giám mục. Tất cả những ban nhượng này tạo nên cái gọi là chế độ bảo trợ. Chế độ này gây ra nhiều bất tiện nặng nề. Việc Truyền giáo lệ thuộc vào những thăng trầm của chính trị và công cuộc thực dân.
- Thánh bộ Truyền giáo: những khó khăn trên thúc đẩy Tòa thánh nắm giữ việc điều khiển công cuộc Truyền giáo bằng cách lập Thánh bộ Truyền giáo. Tòa thánh không xét lại quyền bảo trợ, do đó những cuộc đụng đổ tranh chấp ngày càng gia tăng.
- Nhân sự Truyền giáo: những vị thừa sai đầu tiên nơi các thế giới mới, tiên vàn là những thành viên của các dòng tu, nhất là Dòng Phan sinh và Đa minh, cùng với Phanxicô Xavie (1540), các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu đi Truyền giáo. Hội thừa sai Paris (1663) gồm những linh mục chỉ phục vụ cho công cuộc Truyền giáo và công cuộc thực dân.
II. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO Ở CÁC NƠI TRÊN THẾ GIỚI
1. Châu Phi
Sau khi đánh chiếm Ceuta của người Hồi giáo, Bồ Đào Nha tiếp tục bành trướng dọc theo bờ biển Phi châu cho tới mũi Hảo vọng và tới Mozambique. Việc bành trướng này cũng là nguồn gốc cho công cuộc Truyền giáo ở Phi châu. Ở vương quốc Công gô, nhà vua được Rửa tội, một Giáo Hội Công gô nẩy nở. Con ông là người da đen đầu tiên được làm Giám mục. Nói chung, sự thông đồng giữa công cuộc thực dân được mua bán nô lệ và việc Truyền giáo đã hoàn toàn làm méo mó việc rao giảng Phúc Âm.
2. Châu Mĩ
Chính quyền Tây Ban Nha đã thi hành nghiêm túc nhiệm vụ của một người tổ chức Giáo Hội. Từ 1511-1620, lập được 34 Tòa Giám mục. Công cuộc Truyền giáo đầu tiên thường bằng cách bày tỏ đức tin và bằng cả vũ lực nữa: dựng Thánh giá, lễ nghi lộng lẫy, phá hủy ngẫu tượng. Các thừa sai học tiếng bản xứ, soạn sách giáo lý và giảng bằng tiếng bản xứ.
Ở vùng Paragay, Uragay và Braxin, các cha dòng Tên lập những khu chiêu dân, qui tụ các bộ lạc du mục sống tập trung, lập thành những làng Công Giáo, tránh sự bóc lột của dân. Có tới 30 khu chiêu dân với số người 150 000. Các cha tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên nền tảng Kitô giáo, trong đó mọi sự là của chung.3. Châu Á: Ấn Độ - Nhật Bản
- Ấn Độ: Phanxico Xavie Truyền giáo ở Ấn Độ một thời gian, Rửa tội hàng ngàn người. Nhưng vị thừa sai nổi tiếng nhất ở Ấn là cha Nobili thuộc Dòng tên. Ngài học tiếng bản xứ, sống theo lối các Tu sĩ Ấn giáo, chủ trương để các người trở lại được duy trì tập quán của giai cấp mình. Nhiều thừa sai chống lại phương pháp của Nobili, tố giác tới Rôma. Nhưng Giáo Hoàng nhận một vài kiểu thích nghi của Ngài. Có những thừa sai khác hòa mình vào những giai cấp thấp nhất, sống như họ và để phục vụ họ.
- Nhật bản: trong bước đầu Truyền giáo ở Nhật, không thể không nói đến Phanxicô Xavie. Theo Ngài, ở Nhật rất phức tạp, phải xem xét lại phương pháp Truyền giáo. Muốn hoán cải dân, ngài phải học tiếng nói, biết triết học Nhật rập theo những tập quán địa phương. Phanxicô Xavie được coi là mẫu thừa sai của thời đại mới. Dân trở lại đông: số tín hữu lên tới 300 ngàn, phần lớn ở đảo Cửu châu, cũng như người vùng quanh Kyoto và Tokyo. Về sau các tu sĩ dòng tên cũng theo đường lối của ngài.
4. Trung Quốc - Việt Nam - Triều Tiên
- Trung Quốc: Việc Truyền giáo rất khó khăn vì dân quá sùng đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật, phải được kể là cha Mateo Ricci có công nhất, ngài sống như một nhà sư Phật giáo. Ngài chấp nhận y phục và lối sống của giới Nho sĩ. Ngài lao vào một Tông đồ vũ tri thức, phổ biến các khoa học Tây phương. Ngài trình bày giáo lý Công Giáo trong một tác phẩm bằng tiếng Hoa.
- Việt Nam: các cha dòng tên là những người Truyền giáo đầu tiên. Các ngài có công lớn, hình thành chữ Quốc ngữ mà công lớn nhất là cha Đắc lộ. Theo cha Đắc lộ, điều cơ bản của việc Truyền giáo là biết tiếng địa phương, đào tạo các Thầy giảng, sử dụng văn hóa Việt Nam, hiểu biết tập quán phong tục. Sau các cha dòng tên là các cha thuộc dòng Phan sinh và Đa minh, rồi tiếp là Hội thừa sai Paris, hoạt động theo phương pháp của các cha dòng Tên, kết quả rất khả quan.
- Triều Tiên: vào thế kỷ XVII và XVIII, giới trí thức khám phá ra Kitô giáo trong những sách vở từ Trung Quốc truyền vào. Năm 1784, một nho sĩ trẻ đến Trung Quốc được Rửa tội. Khi trở về Triều Tiên ông Truyền đạo: Rửa tội, giải tội, Thánh lễ. Sau đó, ông xin Trung Quốc gửi đến một linh mục.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO ĐỐI VỚI CHÂU ÂU
1. Truyền giáo và dư luận ở Châu Âu
Từ thế kỷ XV đến XVIII, văn chương Truyền giáo thành công lớn giữa các tác phẩm khác. Nhiều tác phẩm viết về Nhật bản và Trung Quốc được xuất bản. Nhiều tập san, ký sự và thư cũng được phổ biến. Một số tác phẩm này, đặc biệt những tác phẩm của các tu sĩ dòng Tên ở Trung Quốc rất có giá trị khoa học, và góp phần mở rộng địa lý của các người Âu châu. Họ được biết có những văn minh rất cổ, một số rất tinh tế, khác hẳn với những văn minh Châu âu. Châu âu và Trung Quốc bù đắp cho nhau để làm hoàn hảo tất cả những gì có ở hai bên.
2. Cơn khủng hoảng lớn của việc Truyền giáo
Những cuộc tranh chấp về quyền tài thẩm ngày càng tăng giữa các Giám mục do Lisboa bổ nhiệm và các đại diện Tông tòa do Thánh bộ Truyền giáo sai đi. Nhưng nghiêm trọng hơn chính là cuộc tranh cãi về lễ nghi, vì nó cáo giác những phương pháp Truyền giáo và thái độ Kitô giáo trước các văn hóa. Chia rẽ nhiều mặt:
- Ngôn ngữCuối cùng Tòa thánh cấm dòng Tên và bãi bỏ dòng năm 1773. Nhưng một điều đáng ghi nhận là Giáo Hội đã có mặt trên toàn thế giới.
1. Tình hình Giáo Hội
* Thế kỷ XVIII tập trung canh tân : đào tạo hàng giáo sĩ, thanh tẩy những việc đạo đức, phát triển truyền giáo nội địa, chuyên cần thực hành đạo...2. Triết học Ánh sáng tấn công Kitô giáo
Thế kỷ XVIII nổi bật lên những khuôn mặt như : Voltair, Diderot, d'Alembert... Chủ trương triết học này ở Pháp. Họ thường lưu ý tới khía cạnh chống Kitô giáo ; phần đông, họ nghĩ phải có một tôn giáo quần chúng, phù hợp với lý trí, loại trừ mọi mặc khải. Theo họ, các tín điều đi ngược với lý trí và tự nhiên, nên phải chiến đấu tiêu diệt Giáo Hội và Kitô giáo.3. Giáo Hội trước trào lưu Ánh sáng
Để bảo vệ mình, Giáo Hội cố gắng chống lại các địch thủ bằng những phương tiện truyền thông : kiểm duyệt sách xấu, xin chính quyền can thiệp, viết những tác phẩm Kitô giáo...1. Giáo thuyết mộ đạo ở Đức
Giáo thuyết này luôn đề cao giá trị của lòng đạo theo tình cảm và trả lại địa vị cho các việc làm. Phong trào mộ đạo này chi phối phần lớn nước Đức ở thế kỷ XVIII.2. Những giáo phái phát sinh từ Anh giáoNhững tên tuổi như Fox : ông thường rao giảng về giáo lý Ánh sáng nội tâm, chính Ánh sáng này làm cho các tín điều và cơ cấu Giáo Hội trở thành thứ yếu. Hơn nữa, ông luôn kêu gọi các tín hữu run sợ trước Thiên Chúa và qui tụ thành Hội những người bạn của Thiên Chúa.Nhưng ở đây, Wesley mới là người đã làm đảo lộn Anh giáo một cách sâu xa. Cùng với em trai, ông qui tụ sinh viên Đại học Oxford thành câu lạc bộ sống thánh, trong đó người ta đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, làm việc bác ái... Họ sống rất chặt chẽ và nghiêm nhặt. Nói chung, Wesley muốn nhấn mạnh vào việc hoán cải và thánh hóa thường xuyên.
3. Các Giáo Hội Đông phương
Các Giáo Hội này lệ thuộc vào chính quyền ; vì tất cả quyền lực của Giáo Hội là do chính quyền nắm giữ : Nga hoàng chỉ định các vị đại diện lãnh đạo Giáo Hội...1. Tổ chức lại Giáo Hội PhápĐể giải quyết những khủng hoảng về tài chính và chính trị. Pháp hoàng triệu tập Quốc dân đại hội, gồm những đại biểu thuộc ba thành phần : giáo sĩ, qúi tộc và thứ dân. Giáo sĩ phần đông là cha xứ, thuộc phe với các đại biểu thứ dân, để lập Quốc hội lập hiến. Do đó, mà có bản Dân hiến giáo sĩ. Năm 1791, Giáo Hoàng Piô VI đã kết án bản Dân hiến và những nguyên tắc mà các nhà làm luật dựa vào.
2. Con đường gian nan của Giáo Hội Pháp
Trong vòng 10 năm thì Giáo Hội Pháp bị xáo trộn cách xâu xa. Những khó khăn bên trong cũng như bên ngoài càng làm gia tăng những biện pháp không chỉ chống những người không thể, nhưng là chống mọi hình thức của đời sống tôn giáo : nhiều giáo sĩ bị giết, và việc khai sinh - tử, hôn nhân trước đây giáo sĩ nắm, nay trao cho dân sự ; chính quyền cho phép ly dị... Hơn nữa, thái độ thù ghét đạo, muốn triệt hạ đạo lên tới tột đỉnh vào thời kỳ khủng bố : phá hủy cơ sở tôn giáo, hội hè trong nhà thờ, tôn thờ thần lý trí...Khi hạ bệ Robespierre (1794) mới chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, đánh dấu bước đầu giai đoạn tạm ổn cho Giáo Hội. Quốc ước hội hủy bỏ ngân sách cho việc phượng tự và công nhận quyền tự do làm việc phượng tự trong các nhà thờ.3. Thời Napoléon
Năm 1800, các Hông Y họp tại Venetia bầu lên Giáo Hoàng Piô VII. Hồi còn làm Giám mục, ngài đã quả quyết là hình thức chính quyền dân chủ không phải là không thể dung hòa với Phúc Âm. Còn về phía Napoléon cho rằng : không thể cai trị mà không hòa giải với Giáo Hội, nhưng nhãn quan của ông về tôn giáo hoàn toàn có màu sắc chính trị. Từ đó, hai bên đã đi đến ký kết một thỏa ước năm 1801. Theo thỏa ước : hàng Giám mục của chế độ cũ phải từ nhiệm hết, Giáo Hội không được đòi lại tài sản đã bị tịch thu, chính quyền thì lo chu cấp cho hàng giáo sĩ... Cuộc hòa giải giữa hai bên kéo dài được mấy năm, thì năm1806 lại xẩy ra căng thẳng giữa Giáo Hoàng và hoàng đế. Quân Pháp chiếm Rôma và sát nhập Tòa thánh vào Pháp. Giáo Hoàng ra vạ tuyệt thông, nhưng bị bắt và giam lỏng ở Genoa, sau đó đưa về Pháp và mãi năm 1814 mới trả về Rôma.1. Những nguyên tắc trùng hưng
Sau những đảo lộn do cuộc cách mạng và Để nhất đế chính do Pháp gây ra ; hội nghị Vienna muốn tổ chức lại Âu châu, Giáo Hoàng lấy lại nước Tòa thánh. Ba nước Nga, Áo và Phổ lập liên minh thánh nhằm chống lại ý tưởng và các thực hiện cách mạng ; đồng thời đề cao giá trị quá khứ về tôn giáo, luân lý, phẩm trật. Thế nhưng không thể một ngày mà xóa bỏ đươc não trạng 25 năm lịch sử. Những người được thừa hưởng cuộc cách mạng, họ công kích trùng hưng chính trị và Giáo Hội.2. Ở Pháp
Công Giáo trở thành Quốc giáo: việc phục hồi tôn giáo gặp nhiều thuận lợi ; nhờ đó tăng được các giáo xứ và chủng viện. Các dòng tu được phục hồi và còn được thiết lập các dòng mới cả nam và nữ.3. Ở các nước Âu châu khác
- Ở Ý: các Giáo Hoàng kế vị Đức Piô VII gặp những khó khăn về nước Tòa thánh. Chủ trương bài giáo sĩ được hộ trở của hội Tam điểm, đảng Carbonari. Tòa thánh đã cứng rắn đối với các hội này. Nước Ý đòi hủy bỏ tiểu quốc để thống nhất một nước Ý.- Ở Đức và Áo: các ông hoàng của những tiểu quốc thuộc Thệ phản nên cuộc đàm phán giữa nhà nước và Tòa thánh gặp nhiều khó khăn. Phổ là nước có nhiều Thệ phản, nên cũng tìm cách bức bách Công Giáo. Ở Đức Công Giáo phát triển mạnh. Ở nước Áo là một đế quốc lớn. Giáo Hội ở đây ít bị thế tục hóa, Giáo Hội được bảo vệ. Ở Vienna, thánh Hofbauer chấn hưng tinh thần Công Giáo khắp Trung âu.- Ở quần đảo Anh: sáu triệu dân ở đảo Ailen đa số là Công Giáo. Từ lâu họ bị bách hại, nhưng nhờ O Connell năm 1829 mọi người được giải phóng. Ở đây có Tổng Giám mục Wiseman là người đã gây lại sức sống cho Giáo Hội Anh ; và người là nhân vật sáng lập phong trào Oxford nhằm canh tân Giáo Hội Anh giáo, sau trở lại Công Giáo.- Ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha: Ở Tây Ban Nha, vua Fermando lên ngôi, cố gắng phục hưng Giáo Hội, nhưng 1820, một cuộc cách mạng căm thù Giáo Hội bùng nổ, Pháp phải can thiệp ; tới giữa thế kỷ một thỏa ước giữa Tòa thánh và chính quyền được ký. Ở Bồ Đào Nha người Công Giáo bị bách hại nặng nề.4. Trong thế giới Thệ phản và Chính thống
Vua phổ cho sát nhập Giáo Hội phái Luther và Giáo Hội phái Calvin thành một Giáo Hội Phúc Âm. Nhiều nhóm Thệ phản gia tăng, người ta nhận ra hai trào lưu: trào lưu thức tỉnh và trào lưu tự do.Trong thế giới Chính thống giáo: Hy lạp được độc lập, Giáo Hội được tự do. Ở Nga, Giáo Hội Chính thống bị chia rẽ nhiều phe phái.1. Thái độ của Giáo Hội trước trào lưu cách mạng
- Cuộc trùng hưng Công Giáo gây chống đối với giới trưởng giả tự do, đặc biệt là ở Pháp. Có những người Công Giáo liên minh với phái tự do bài giáo sĩ. Ở nước Tòa thánh, dân chúng nổi dậy sau khi Đức Giáo Hoàng Piô VIII qua đời ; Đức Gregoriô nhờ Áo can thiệp, Giáo Hoàng được coi là kẻ thù.2. Chủ thuyết tự do và quan điểm của Lamennais
Chủ thuyết tự do được phổ biến sau thời cách mạng 1789. Trong lãnh vực chính trị là chống lại chuyên chế, phong kiến, qúi tộc, bảo hoàng, bảo thủ, tìm cách triệt hại Giáo Hội. Trước tình hình đó linh mục Lamennais đề nghị giải pháp tự do tôn giáo, đồng thời ông và các bạn đề nghị canh tân Giáo Hội và xã hội. Ông đã bị các Giám mục và Tòa thánh kết án. Ngày nay khát vọng của Lamennais đã biến thành hiện thực.3. Tình trạng mong manh của nước Tòa thánh
Thời Đức Gregoriô XVI, Tòa thánh nhờ Áo can thiệp, phải nhượng đất cho Áo. Đức Piô IX lên thay, tổ chức lại nước Tòa thánh. Vì Tòa thánh không tham gia liên minh chống Áo nhằm giải phóng Ý, dân chúng nổi dậy. Giáo Hoàng kêu gọi, Pháp đem quân đến giúp chiếm lại Rôma. Các nhà ái quốc Ý không chấp nhận liên bang do Giáo Hoàng thủ lãnh, nên hướng về Piamonte, miền Lombardia thuộc về Piamonte, đến lượt ba tỉnh phía bắc của nước Tòa thánh cũng sát nhập vào Piamonte. Nước Tòa thánh mất phần lớn, chỉ còn Rôma và vùng phụ cận1. Dư luận Công Giáo trước Công Đồng
Nhiều người Công Giáo muốn Công Đồng xác nhận quyền đạo của Giáo Hoàng ; khẳng định quyền Giáo Hoàng đã định tín (1854): Đức Mẹ Vô Nhiễm.2. Diễn tiến của Công Đồng
Công Đồng khai mạc 8.12.1869: Định tín quyền bất khả ngộ. Công Đồng qui tụ 700 Giám mục, Công Đồng bàn về tương quan đức tin và lí trí, định tín một Thiên Chúa có Ngôi vị, quả quyết mặc khải là cần thiết ; quyền bất khả ngộ của Giáo Hoàng không được chính thức ghi trong dự thảo. Ngày bỏ phiếu, hiến chế chủ yếu xác định quyền tối cao và bất khả của Đức Giáo Hoàng. Do chiến tranh Pháp Phổ, sau khi Pháp đóng ở Rôma bảo vệ Tòa thánh về Pháp, Piamonte xua quân chiếm Rôma. 20-10 Đức Piô IX tuyên bố tạm ngưng Công Đồng.3 Những hậu quả và ảnh hưởng của Công Đồng
Nói chung, những nghị quyết của Công Đồng đều được đón nhận, kể cả quyền bất khả ngộ cũng được đem ra bàn, chỉ có một vài đại học ở Đức chống đối.Người ta có cảm nghị Công Đồng chỉ bàn về Giáo Hoàng mà không bàn về Giám mục. Công Đồng thừa nhận Giáo Hoàng có quyền tài thẩm thông thường trên toàn Giáo Hội. Quyền Giáo Hoàng còn cần phải được dung hòa với quyền của các Giám mục. Vat.II sẽ bổ túc điều này khi khẳng định tính tập đoàn của Giám mục.Những định tín Vat.I đôi khi làm căng thẳng giữa xã hội chính trị và Giáo Hội. Đó là cớ nhiều Quốc gia đã bài Giáo Hội.1. Tại Giáo Triều Rôma
Đức Piô IX (1846-1878) qua đời, kết thúc triều đại Giáo Hoàng lâu nhất lịch sử. Đức Lêô XIII (1878-1903) lên kế vị được coi là người cởi mở với những vấn đề xã hội, kêu gọi người Công Giáo chấp nhận nền Cộng hòa và đấu tranh chống bất công. Nếu Đức Piô X (1903-1914) luôn ưu tư đến việc mục vụ: cổ võ rước lễ, tổ chức phụng vụ, Công Giáo tiến hành và chủng viện, thì Đức Bênêđíctô XV (1914-1922) và Đức Piô XI (1922-1939) được mệnh danh là những nhà hòa giải qua hàng loạt hòa ước với các quốc gia.2. Tại Ý
Sau khi chiếm được Rôma và đặt làm thủ đô nước Ý, chính quyền ban hành luật Bảo Đảm, tháng 5-1871 đơn phương giải quyết tình trạng Giáo Hoàng và nước Tòa Thánh. Đức Giáo Hoàng từ chối luật này và cắt đứt bang giao với nước Ý. Các ngài cấm người Công Giáo tham gia chính trị, cấm ứng cử bầu cử. Chính do thái độ này mà chính quyền đã gây nhiều khó khăn cho Giáo Hội như cấm rước kiệu, cấm hành hương, tịch biên tài sản tu viện... Mãi đến năm 1905, nhờ sự đấu tranh của nhiều giáo sĩ, các tín hữu mới được tham gia đời sống chính trị.3. Tại Đức
Sau chiến thắng Pháp và Áo, đế quốc Đức được thống nhất quanh nước Phổ (1871). Cùng với bộ trưởng Falk, thủ tưởng Bismark phát động mặt trận văn hóa tuyên bố chống lại chính sách ngu dân của giới Công Giáo. Kiểm soát học đường, sa thải các giáo sư tu sĩ. Các giáo sĩ phản đối thì bị bắt và trục xuất. Năm 1878 chỉ còn bốn giám mục Đức tại vị, hàng ngàn giáo xứ không có linh mục. Cũng năm đó đảng Dân Chủ xã hội mưu sát Hoàng đế Wilhelm, và Đức Lêô XIII lên ngôi. Bismark nới rộng luật mặt trận văn hóa và chấm dứt vào năm 1897. Nhưng hôn nhân vẫn phải theo dân sự.4. Tại Pháp
Chính phủ Đệ Tam cộng hòa (1875-1936) mới đầu tỏ vẻ thân hữu với Giáo Hội. Thế nhưng Quốc Hội chuyển dần sang tay những người cộng hòa vốn cho rằng Giáo Hội gắn bó với nền quân chủ và rao giảng một thứ tôn giáo ngu dân cần dẹp bỏ. Đại học Công Giáo mất quyền phát bằng (1879). Bộ trưởng giáo dục J. Ferry cấm các dòng mở trường, giải tán 261 tu viện. Ông mở trường nữ trung học để đạo tạo nữ đồng chí cộng hòa, cho phép li dị (1884), bãi bỏ ngày nghỉ chủ nhật, cấm dạy giáo lí trong trường học. Từ 1901-1903, Thủ tướng Rousseau ra nhiều đạo luật: đóng cửa gần 10.000 trường tư thục Công Giáo, tịch thu các tu viện, buộc các tu sĩ hoàn tục. Những tín hữu còn giữ đạo sẽ chấm vào sổ đen và bị kiểm soát. Năm 1905, Pháp công bố đạo luật phân li, trao tất cả cơ sở Công Giáo cho hiệp hội các tôn giáo quản trị. Giáo Hội Pháp nghèo hẳn đi, tín hữu phải đóng góp từng xu cho việc phượng tự, nhưng nhờ đó, Giáo Hội được tự do không lệ thuộc các tổ chức.5. Tại Áo và Thụy Sĩ cũng có các chiến dịch tương tự
Năm 1874, cả hai nước đều ban hành đạo luật cấm liên lạc với Rôma, tục hoá học đường, đảm trách hôn nhân. Nhưng dưới thời Đức Lêô XIII tình hình đổi khác, đại học Fribourg được thiết lập năm 1889.6. Tại Bỉ và Hà Lan
Cũng có xung đột về trường học, nhưng giới Công Giáo đứng ra mở trường tư, rồi tham gia quốc Hội để cải thiện pháp chế học đường. Các trường tư Công Giáo về sau được chính quyền trợ cấp.7. Tại bán đảo Ibérique
Các xung đột tôn giáo nhiều khi biến thành bạo động. Tây Ban Nha vẫn coi Công Giáo là quốc giáo. Nhưng dưới thời Cộng hòa (1873-1875 và 1909-1912) đã xảy ra nhiều vụ thảm sát giáo sĩ, cướp phá nhà thờ, tu viện... Tại Bồ Đào Nha, sau khi lật đổ vua Manuel (1810) chính thể Cộng hòa tuyên bố phân li với Giáo Hội, chống giáo sĩ, chống hội dòng và cắt đứt ngoại giao với Vatican năm 1913.1. Người kitô hữu trong cuộc chiến
Trong thế chiến I, cả phe đồng minh lẫn phe Đức, Áo, Hung đều nhìn nhận người Công Giáo rất yêu mến tổ quốc. Các giám mục kêu gọi cầu nguyện cho "quân ta" chiến thắng. (Thiên Chúa đứng về phía nào đây ?). Đức Bênêđíctô XV không đứng về phe nào, đã gửi đi nhiều Thông Điệp kêu gọi hòa bình. Tòa Thánh cổ võ những hoạt động nhân đạo như cứu trợ, chăm sóc và trao đổi thương binh. Năm 1917, Đức Thánh Cha tình nguyện làm trung gian cho hai bên gặp gỡ. Nhưng cả hai đều muốn kết thúc xung đột bằng chiến thắng chứ không bằng hòa đàm.2. Những cố gắng hòa giải sau chiến tranh
Sau chiến tranh, nước Áo Công Giáo bị chia cắt để thành lập nước Tiệp và Hung (1921). Tòa Thánh và các quốc gia kí kết nhiều hòa ước. Riêng Đức Piô XI đã kí 20 hòa ước với các nước Châu Âu, quan trọng nhất là hòa ước Latêranô kí với Moussolini năm 1929. Người nhìn nhận Rôma là thủ đô Ý, còn nước Ý nhận quyền Giáo Hoàng trong lãnh vực tôn giáo, và điều hành nước Vatican nhỏ bé với 44 ha.Việc phong thánh cho Jeanne d'Arc năm 1920 xác định lập trường của Giáo Hội cổ vũ người tín hữu yêu nước. Các đảng phái Công Giáo bắt đầu liên hiệp để hoạt động như đảng Bình dân Ý, Mặt trận Bình dân Pháp.3. Khai sinh phong trào Công Giáo tiến hành
Công Giáo tiến hành là hoạt động chuyên biệt của giáo dân nhằm phục vụ Giáo Hội, giúp đỡ hàng giáo sĩ, rao giảng Tin Mừng hoặc tái rao giảng Tin Mừng cho thế giới. Những năm 1925-1935, phong trào này mới được tổ chức qui mô và phát triển, mà khởi đầu là tổ chức Thanh Lao Công do linh mục Cardin sáng lập ở Bỉ năm 1925, rồi năm sau được lập ở Pháp tiếp đến là Thanh Nông Công (1929), Thanh Sinh Công (1932), Thanh niên Công Giáo (1935). Đức Piô XI nồng nhiệt đón nhận và cổ vũ các phong trào này, và tự nhận là Giáo Hoàng của Công Giáo tiến hành. Phong trào Công Giáo tiến hành đã làm thay đổi những tương quan giữa Giáo Hội và xã hội, giúp người Công Giáo ý thức được trách nhiệm trong xã hội.4. Người kitô hữu trước chế độ độc tài đảng trị
Thực tế, khuynh hướng độc tài đảng trị đang có cơ hội phát triển dựa vào tinh thần quốc gia quá khích của dân chúng.Ở Ý, Moussolini và đảng Phát xít giải tán các đảng khác, nắm toàn quyền năm 1922, muốn ghìm chặt mọi công dân trong nước từ lúc sinh ra tới lúc chết trong các tổ chức đảng.Ở Đức, Hitler nắm chính quyền năm 1933 như một vị cứu tinh của một dân tộc đang khủng hoảng. Ông giải tán mọi nghiệp đoàn, đảng phái và bộc lộ ý thức hệ của mình trong cuốn "Cuộc chiến đấu của tôi" mà nội dung là bài Dothái và chống Kitô giáo.1. Hoàn cảnh mới về chính trị và tôn giáo
Đầu thế kỷ XIX Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã suy thái, chỉ còn Anh và Pháp cạnh tranh nhau trong mọi lãnh vực: hàng hải, thương mại, thuộc địa lẫn trong lãnh vực truyền giáo. Anh ủng hộ việc truyền giáo của Thệ Phản, Pháp ủng hộ cho Công Giáo.2. Tổ chức việc truyền giáo
Nét độc đáo của thế kỷ XIX là những nỗ lực lớn lao tổ chức việc truyền giáo, kiếm vật lực, nhân lực, đưa ra những cơ cấu kể cả học thuyết về truyền giáo.- Tìm kiếm vật lực nơi dân chúng: bằng việc tình nguyện đóng góp của cải.3. Truyền giáo và công cuộc thực dân
Từ nửa sau thế kỷ XIX các cường quốc Châu Âu tranh nhau chinh phục các vùng đất mới. Công cuộc thực dân mở ra một cánh đồng truyền giáo bao la. Cả hai liên kết với nhau trong những trách vụ chung: trường học, nhà thương... Chính sự liên kết này lắm khi gây ra những hàm hồ giữa truyền giáo và thực dân, giữa quyền lợi và chủ đích của hai bên.1. Cuộc di cư của người Châu Âu
Cuộc di cư của người Châu Âu tuy đã khởi sự ở những thế kỷ trước, nhưng ở thế kỷ XIX thì lớn hơn. Vì thế mọi hệ phái Kitô giáo đều có mặt khắp nơi trên thế giới.2. Đại Dương Châu
Cả Thệ Phản lẫn Công Giáo đua nhau truyền giáo ở các thổ dân các hải đảo Thái Bình Dương này. Thừa sai Công Giáo đến Đại Dương Châu vào năm 1827. Trong đó có Cha Đamiên, tông đồ người cùi ở đảo Molokai.3. Á Châu
- Ấn Độ: ở Ấn Độ đã hồi sinh các cuộc truyền giáo, trong đó có việc mở trường Công Giáo. Năm 1847 Dòng Tên mở một tập viện cho người bản xứ. Đào tạo giáo sĩ đia phương.4. Ở Phi Châu
Trong những thế kỷ trước, chỉ có những cuộc truyền giáo ở các nước vùng ven biển. Sang thế kỷ XIX, ánh sáng Phúc Âm đã được rao giảng vào sâu trong nội địa. Các thừa sai, mặc dầu còn trẻ nhưng sau một thời gian hoạt động đã chết vì không hợp thủy thổ.Hậu bán thế kỷ XIX có đức Cha Lavigerie, Tổng Giám Alger, lập hội dòng các cha Trắng truyền giáo riêng cho Châu Phi. Các ngài phải hoàn toàn thích nghi với dân bản xứ từ ăn, ở, ngôn ngữ.Năm 1902, việc phân chia Châu Phi cho các nước Âu Châu hoàn tất. Công việc truyền giáo được tổ chức trong phạm vi mỗi thuộc địa. Đây là bước đầu tiến mạnh của Giáo Hội Phi Châu.1. Những hệ quả của cuộc chiến
Thế chiến I gây những hậu quả bất lợi cho việc truyền giáo. Các hội dòng mất đi một phần phương tiện, giảm bớt mất một số thừa sai vì phải động viên, cạn vật lực. Các thừa sai người Đức bị đuổi hoặc bị kiểm soát ngặt bởi người Anh và người Pháp.2. Chính sách tập quyền của Rôma về việc tuyền giáo
Cũng như vị tiền nhiệm, Đức Piô XI khẳng định Giáo Hội và việc truyền giáo đứng trên chính trị. Để khẳng định Giáo Hội không lệ thuộc các chính quyền, ngài cử đi các vị khâm sứ và kinh lí tông tòa không có vai trò ngoại giao. Năm 1922, ngài cho chuyển từ Lyon về Rôma trụ sở của Hội Truyền Bá Đức Tin.3. Hướng tới việc thiết lập các Giáo Hội địa phương
Theo lời yêu cầu của vị tiền nhiệm là Đức Bênêđíctô, Đức Piô XI rất quan tâm tới việc thiết lập một hàng giáo sĩ địa phương trong các xứ truyền giáo, có thể tự lập được trong trường hợp các thừa sai ngoại quốc phải ra đi. Năm 1923, ngài chỉ định một tu sĩ dòng Tên người Ấn Độ làm giám mục. Năm 1926, ngài tấn phong 6 vị Giám mục đầu tiên người Trung Quốc. Năm 1927, bổ nhiệm Giám mục đầu tiên người Nhật. Năm 1933 bổ nhiệm Giám mục đầu tiên người Việt Nam. Năm 1939 đặt Giám mục đầu tiên người da đen. Cùng năm 1939, có 48 cơ sở truyền giáo được trao cho các Giám mục bản xứ.1. Giáo Hội, công nhân
và những chủ thuyết xã hội mớiBàn về thái độ của Giáo Hội đối với các vấn đề xã hội, và hậu quả của thái độ này đối với tầng lớp công nhân phát sinh từ xã hội kỹ nghệ mới, người ta hay trích dẫn lời được gán cho Đức Piô XI: "Giáo Hội đã đánh mất giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX". Sở dĩ thế là vì Giáo Hội liên đới với tầng lớp chủ nhân.2. Những chủ trương và hoạt động xã hội
trong giới Công GiáoTừ giữa thế kỷ XIX, chỉ có giới Công Giáo bảo thủ quan tâm đến vấn đề xã hội. Họ cho rằng phải tái lập một xã hội có thứ bậc, một hệ thống nghiệp hội trong đó chủ và thợ ràng buộc với nhau như cha mẹ với con cái trong một gia đình.Ở Đức, giới Công Giáo cho rằng vấn đề xã hội không giản lược vào một tổ chức cứu tế, nhưng đòi hỏi có sự tổ chức lại về kinh tế và cần có sự can thiệp của nhà nước. Đại diện chính cho giới Công Giáo xã hội Đức là Ketteler, Giám mục Mainz.Ở Áo, một đồ đệ của Ketteler sáng lập một tờ báo làm diễn đàn cho người Công Giáo Áo có khuynh hướng xã hội. Ở Ý, Anh, Mỹ, Úc... có những hoạt động trực tiếp của giáo quyền nhằm bảo vệ giới công nhân.3. Khai sinh học thuyết xã hội của Giáo Hội
Ngay khi lên làm Giáo Hoàng, Đức Lêô XIII đã lo ngại về trào lưu đang lên của chủ thuyết xã hội và tình trạng rối loạn trong xã hội. Những cuộc đình công đẫm máu và những cuộc mưu sát xảy ra suốt những thập niên cuối thế kỷ. Sáng kiến của các người Công Giáo xã hội vừa gặp sự đối kháng của người Công Giáo muốn tự do kinh tế, lại vừa đi ngược với mọi tổ chức thợ thuyền. Một số người muốn Giáo Hoàng can thiệp, đưa ra đường lối tư tưởng và hành động chung. Trước tình hình đó, Đức Lêô XIII đã ra Thông Điệp Tân Sự (1891) qui định về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Thông Điệp này có ảnh hưởng lớn trong giới Công Giáo và là tiền đề để các Đức Giáo Hoàng kế tiếp khai triển thêm giáo thuyết về vấn đề xã hội như Thông Điệp Tứ Thập Niên của Đức Piô XII (1931), Bát Thập Niên, Bách Chu Niên...1. Giáo Hội trước tào lưu triết học và khoa học mới
Ngay từ thế kỷ XVII-XVIII, sự tiến bộ của các khoa học khiến cho có những người đòi đặt lại vấn đề về một số dữ kiện Kinh Thánh.Thế kỷ XX, triết học Kant chủ trương không thể đạt tới Thiên Chúa bằng lí trí. Nhân loại đi tới thời đại của khoa học, của chủ thuyết Duy Thực Nghiệm... Có thể nói, khoa học làm lung lay mọi điều trước đây được coi là chắc chắn.Trước những lí thuyết trên đây, phản ứng đầu tiên của Giáo Hội là tự vệ, cấm đoán. Khoa học nào đụng chạm đến mặc khải đều là tác phẩm của ma quỉ.Công Đồng Vatican I cố gắng làm sáng tỏ tương quan giữa lí trí và đức tin. Giáo quyền cũng tìm sự hỗ trợ nơi chính quyền. Các nhà hộ giáo tìm cách biện minh cho những chân lí của đạo bị tấn công.2. Cuộc khủng hoảng của chủ thuyết Duy Tân:
Là mọi nỗ lực thích đáng hoặc không, nhằm hòa giải những thủ đắc mới của kiến thức với những đòi hỏi thường xuyên của đức tin. Đây là cuộc khủng hoảng trong nội bộ Giáo Hội. Các người bảo thủ cố chấp từ chối bất cứ hình thức sử dụng khoa học hiện đại nào trong cách diễn tả đức tin. Những người cấp tiến lại muốn dùng các bộ môn khoa học để phục vụ tôn giáo mà vẫn bảo vệ những đòi hỏi thường tồn của đức tin. Thậm chí xét lại các vấn đề theo khoa học.3. Chủ thuyết Duy Tân bị kết án
Tòa Thánh ghi vào danh mục sách cấm hàng loạt sách báo, cấm một số linh mục giảng dạy. Tháng 7-1907 , Bộ Thánh Vụ ra Sắc lệnh tố giác sai lầm được liệt kê thành 65 mệnh đề. Đây là Sắc lệnh chính thức đầu tiên lên án chủ thuyết Duy Tân. Hai tháng sau Đức Piô X ban hành Thông Điệp trình bày đầy đủ và có hệ thống mọi sai lầm của Duy Tân thuyết dưới các khía cạnh triết học, thần học, Thánh Kinh, lịch sử... chủ đích của Thông Điệp là không muốn một lãnh vực nào còn nhiễm ảnh hưởng tai hại của chủ thuyết Duy Tân được coi là "hang ổ của mọi lạc thuyết". Giáo Hội đòi phải thề chống chủ thuyết Duy Tân với những ai sắp lãnh chức thánh hoặc một chức vụ quan trọng.4. Hoạt động trí thức Công Giáo
sau việc kết án chủ thuyết Duy TânVới hai cuộc thế chiến, con người vỡ mộng và không còn tin tưởng vào khoa học vạn năng nữa. Họ quay về với chủ thuyết Duy Linh và Kitô Giáo. Giữa hai cuộc chiến, các văn sĩ Công Giáo đứng đầu trong sinh hoạt văn chương.Tuy nhiên do việc lên án chủ thuyết Duy Tân làm cho các nhà chú giải Công Giáo một thời ngưng việc tìm kiếm. Phải đợi tới năm 1943, nhờ một Thông Điệp của Đức Piô XII, các nhà chú giải Kinh Thánh mới thấy được khuyến khích làm công việc mình. Trong lãnh vực lịch sử và thần học tín lí, bầu khí cũng bớt căng thẳng. Giáo Hội không còn buộc phải khẳng định tín điều không có lịch sử.1. Những Giáo Hội và giáo phái Kitô giáo cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Việc dân chúng thay đổi chỗ ở, những phong trào di cư và sự tự do tôn giáo đưa các giáo phái khác nhau đến chỗ gặp gỡ nhau và chung sống với nhau, từ đó đặt ra những câu hỏi về sự đổ vỡ của Kitô giáo trong một thế giới mà người kitô hữu ngày càng trở nên thiểu số.- Các Giáo Hội Đông Phương - Chính Thống có 15 Giáo Hội, có Thượng Phụ riêng. Giáo Hội Nga trong những năm cuối của chế độ Sa Hoàng không có được sự tiến triển nào về thể chế, nhưng vẫn sinh sản được các nhà tư tưởng như triết gia Soloviv nỗ lực đưa Chính Thống giáo xích lại gần Công Giáo. Sau cách mạng 1917, Giáo Hội bị bách hại liên tục bởi chế độ Bôn-sê-vích. Những năm ở thế kỷ XIX và XX, các kitô hữu Đông Phương di cư và lập nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới.2. Phong trào đại kết ngoài Công Giáo
Đại kết là ý muốn xích lại gần nhau giữa các nhóm kitô hữu khác nhau.Năm 1910 hội nghị Edinburg qui tụ các đại biểu của những thừa sai Thệ Phản khác nhau. Có cả sự tham gia của đại biểu Á Châu và Phi Châu. Tuy chưa có sự nhất trí hoàn toàn, nhưng qua hội nghị, phong trào Đại Kết đã được khai sinh. Sau thế chiến I, phong trào "sống và hành động" phát xuất từ Thụy Điển, qui tụ các đại biểu Thệ Phản của nhiều quốc gia, có cả đại biểu Chính Thống giáo: nghiên cứu về tương quan giữa các Giáo Hội và xã hội. Ngoài ra còn có phong trào "Đức tin và thể chế" do Anh đề xướng, bàn luận về nhiều điểm thuộc giáo lí, đòi hỏi hiểu biết lẫn nhau. Từ hai phong trào trên, một cơ quan chung được thiết lập là Hội Đồng Đại Kết Các Giáo Hội, nói chung là nhằm hiệp nhất về hành động và giáo lí.3. Những khó khăn của vấn đề Đại Kết trong Giáo Hội Công Giáo
Cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, Portal, một tu sĩ Lazariste đã bắt liên lạc với các tín hữu Anh Giáo và có nhiều sáng kiến đại kết nhưng không được Giáo quyền công nhận.Giáo Hội Công Giáo cho rằng mình là người duy nhất nắm giữ "chân lí", nên không thể có chuyện Giáo Hoàng đối thoại với các kitô hữu khác trên nguyên tắc bình đẳng. Đức Bênêđíctô XV lịch sự từ chối tham gia các phong trào hiệp nhất đang hình thành. Đức Piô XI còn cấm người Công Giáo tham dự các phong trào này.Tuy vậy, người Công Giáo cũng tìm được một phương thức khác để đi đến hiệp nhất, đó là cầu nguyện.1. Những thảm họa của chiến tranh
Cũng như mọi công dân khác, người kitô hữu phải chịu những hậu quả của cuộc chiến: tàn phá chết chóc trong một Châu Âu mà 3/4 bị Đức Quốc Xã thống trị. Lương tâm Kitô giáo bị đặt trước những lựa chọn khó khăn: thái độ với kẻ chiếm đóng như thế nào ? Có phải tuân phục chính quyền hiện hữu ? Có được thụ động trước việc người Dothái bị hủy diệt ? Bạo động có hợp pháp để giải phóng tổ quốc không ? Các thái độ khác nhau tùy thuộc từng nước và ngay ở trong mọi nước.Balan: phần phía tây bị sát nhập vào Đức. Tôn giáo bị bách hại. Tại Nga, chính quyền cộng sản thúc đẩy lòng ái quốc của tôn giáo để chống Phát xít, nhưng khi hòa bình lập lại, họ lại trở mặt đàn áp tôn giáo. Ở Hòa Lan, Công Giáo và Tin lành phối hợp chống lại việc đàn áp người Dothái, nên bị quân Đức trả đũa nặng nề. Ở Pháp chính quyền Pétain dành nhiều thuận lợi cho Công Giáo, nhưng một số tín hữu Công Giáo đã sớm đứng về phe kháng chiến.2. Thái độ thinh lặng của Đức Piô XII
Khác với Đức Bênêđíctô XV, người đã bị chỉ trích mạnh mẽ vì đã kêu gọi hòa bình ở Thế Chiến I, Đức Piô XII hồi sinh tiền hầu như được mọi người ca ngợi về thái độ của người trong cuộc chiến. Thế nhưng, sau này người ta lại chỉ trích thái độ im lặng của người. Thật ra người đã nỗ lực ngăn chặn chiến tranh từ 1939-1940, sau đó người đã kêu gọi Moussolini đứng ngoài cuộc chiến, cuối cùng người đã thúc đẩy nhà vua loại trừ Moussolini và phản đối những cuộc oanh tạc.Thật ra có những lúc người phải im lặng, kể cả trước việc người Dothái bị tiêu diệt. Người cảm thấy bất lực, và với sự khôn ngoan suy đoán, sự im lặng của người có lợi hơn. Thực tế cho thấy đường lối ngoại giao của người đạt kết quả hơn là lên tiếng phản đối. Có những nơi giáo quyền can thiệp thì quân Đức lại tàn sát dữ dội hơn.1. Hoạt động của một Giáo Hoàng uyên bác
Cũng như vị tiền nhiệm, khi thấy nhiệm vụ cấp bách nhấn mạnh công lí và hòa bình trong một thế giới có chiến tranh, hoặc có nguy cơ đe dọa các vấn đề quốc tế và xã hội, Đức Piô XII vẫn không quên nhiệm vụ chuyên biệt của mình là lãnh đạo, giảng dạy và thánh hóa toàn dân Chúa. Người là vị Giáo Hoàng có nhiều văn kiện giáo huấn nhất. Riêng Thông Điệp đã lên tới con số 43. Người cáo giác phong trào "thần học mới", người e ngại trước chủ thuyết "hòa đồng".2. Giáo Hội ở một số nước Tây Âu
Sau chiến tranh, Âu Châu chia làm hai khối: khối Đông Âu gồm các nước Cộng sản chịu ảnh hưởng của Liên Xô và khối Tây Âu Tư Bản. Sự phân chia này gây hệ quả quan trọng cho tôn giáo. Ở Tây Âu, người kitô hữu giữ một vai trò khá lớn trong chính trị. Trong nhiều nước, họ trở thành một lực lượng thứ ba chống lại Cộng sản.3. Giáo Hội tại các nước Đông Âu
Cuộc bách hại đạo được thực hiện khắp các nước Đông Âu với những hình thức và cường độ khác nhau.Ở Liên Xô, chính sách và hành động bài tôn giáo rất mãnh liệt, nhất là ở vùng biển Ban Tích, nhà nước triệt hạ phần lớn hàng giáo sĩ. Trong tất cả các nước Đông Âu, nhà nước đều mở những phiên tòa đại hình xét xử, các nhà lãnh đạo Công Giáo thường bị buộc vào tội thông đồng với kẻ thù và nhiều tội trạng khác: Hồng Y Mindzenty ở Hung, Giám mục Béran ở Tiệp Khắc, Giám mục Stépinac ở Nam Tư, Hồng Y Wyszynski ở Ba Lan...Ngoài chính sách bách hại nặng nề, các nước Đông Âu còn dựng lên những nhóm giáo hội cấp tiến tự trị trong lãnh thổ của mình.4. Việc giải thực (décolonisation) và các Giáo Hội trẻ
Trong vòng 20 năm sau Thế chiến II, các Đế quốc thực dân thay nhau sụp đổ. Các nước thuộc địa lần lượt đứng lên giành độc lập. Trong tình huống này, Kitô giáo bị liên hệ và được coi là tôn giáo do thực dân Âu Châu du nhập. Họ đổ lỗi cho Kitô giáo cùng với thực dân làm lu mờ truyền thống văn hóa lâu đời của họ. Cùng lúc giành độc lập chính trị, họ cũng độc lập tôn giáo.Từ năm 1949, nhà nước Cộng sản Trung Quốc đòi người kitô hữu phải thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang, giành quyền tự trị trong ba lãnh vực: lãnh đạo, quản trị tài chính và giảng đạo. Do đó, các giáo sĩ ngoại quốc bị trục xuất hoặc hành quyết.1. Thời kì chuẩn bị
Được Đức Thánh Cha Gioan XXIII loan báo ngày 25 tháng 1 năm 1959, Công Đồng được chuẩn bị trong hai thời. Thời tiền chuẩn bị mở đầu hôm 2-5-1959: thành lập một ủy ban do Đức Hồng Y Tardini trưởng ban, có nhiệm vụ tổ chức và thu thập ý kiến khắp nơi, kết thúc hôm 1-5-1960.Thời chuẩn bị mở đầu hôm 5-6-1960, từ đây các nhân viên thuộc 10 Ủy Ban, 3 Văn Phòng và Ủy Ban Trung Ương (được triệu tập hôm 14-11-1960) chung sức vạch ra 73 lược đồ. Thời này kết thúc hôm 11-6-1962.Tuy vậy, nội dung vẫn chưa được rõ ràng, nhưng Đức Thánh Cha chia ra làm 2 mục tiêu lớn là:2. Diễn tiến Công Đồng (bốn kì họp)
- Khóa họp đầu tiên từ (11-10 đến 8-12-1962), có khoảng 2400 nghị phụ hiện diện: có những quan sát viên từ những Giáo Hội khác được mời, có lúc 31 vị, rồi lên tới 93 vị lúc bế mạc Công Đồng. Ngoài ra còn có sự hiện diện của nam nữ dự thính viên giáo dân.3. Những nét đặc biệt
trong chiều hướng cởi mở của Công ĐồngCông Đồng muốn mình là Công Đồng mục vụ, nhằm nói với mọi người đương thời. Công Đồng không đưa ra định tín nào, không đưa ra một kết án hay vạ tuyệt thông nào cả.1. Tòa Thánh thực hiện những chỉ thị của Công Đồng
Theo tinh thần của Đức Phaolô VI, đã đến lúc Giáo Hội đi vào tinh thần Công Đồng và trung thành áp dụng những chỉ thị mà Công Đồng đặt ra. Nhất là hai lãnh vực thay đổi quan trọng là phụng vụ và cơ cấu tổ chức Giáo Hội. Phụng vụ được dùng tiếng bản quốc, đặt lại giá trị phụng vụ lời Chúa, chịu lễ hai hình, đồng tế...; về cơ cấu Giáo Hội: cải tổ Giáo Triều, bớt những gì không cần thiết...- Ở cấp cao hơn, việc áp dụng tính tập đoàn Giám mục, hình thức Thượng Hội Đồng Giám Mục và hình thức này nhóm họp đầu tiên vào năm 1967...2. Những nỗ lực canh tân trong Giáo Hội theo chiều hướng Công Đồng. Tòa Thánh đã làm cho mọi người chú ý những chỉ thị cụ thể, đến lượt toàn thể Giáo Hội nỗ lực canh tân theo những chiều hướng của những chỉ thị này. Những việc canh tân xúc tiến trong mọi lĩnh vực: Tinh thần tập đoàn và cộng tác đối thoại, mục vụ, bí tích, giáo lí, phụng vụ Thánh lễ... canh tân đời sống tu trì, về vấn đề phó tế vĩnh viễn, giáo dân được trao nhiều sinh hoạt trong Giáo Hội và được đề cao... Việc hành hương của vị Cha chung, tiếp xúc gặp gỡ... và nhất là về Thánh Kinh: có bộ Kinh Thánh dịch chung với người Tin Lành lấy tên là TOB.Ngoài ra, quyền con người cũng được đảm bảo. Một loạt các Thông Điệp: "Hòa Bình Trên Trái Đất", "Phát Triển Các Dân Tộc"...
3. Những xáo trộn và khủng hoảng
- Lý do ngay trong ý hướng canh tân đã ảnh hưởng lớn trong đời sống Giáo Hội, tâm thức và cách hành xử của người Công Giáo. Trong đó có cơn khủng hoảng về linh mục (riêng năm 1963-1978 có 32.000 đơn xin hồi tục), ơn gọi bị giảm sút... Nhưng có lẽ khủng hoảng trầm trọng nhất liên hệ đến Thông Điệp "Sự Sống Con Người" (Humanae Vitae 7-1968) về vấn đề hôn nhân và kế hoạch gia đình.